“Ngôi sao tớ gửi trên trời!” – Chu Kim
Đăng trong: Tháng Mười Hai 1, 2019 Filed under: Anh Hùng, Bài Đọc Hay, Biên Khảo, Hồi Ký, Human Rights, Lịch Sử, Nhân Vật | Tags: Anh Hùng, Bài Đọc Hay, Biên Khảo, Giáo Dục, Lịch Sử Bạn nghĩ gì về bài viết này?Bài đọc suy gẫm:“Ngôi sao tớ gửi trên trời!” hay bài viết về lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia một thời để nhớ với tướng Nguyễn Ngọc Loan của tác giả Chu Kim.
Hơn bốn chục năm trôi qua, lòng tôi vẫn mang nặng những hoài niệm về một vị Tướng, người đã một thời đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia và Cục Trưởng cục An Ninh Quân Ðội.
Ông có cái tên gọi lên êm ái như tên của một nữ nhân, nhưng giới truyền thông và bạn bè đương thời thường gọi ông bằng một biệt danh “Sáu Lèo”. Chẳng biết biệt danh này do đâu mà có, nghe như đượm chất khôi hài, thế mà ông vẫn hề hà chấp nhận như một cái tên trời cho.
Ngày ông về làm trưởng tộc gia đình CSQG, tôi chỉ một lần được thấy ông mặc quân phục ka-ki màu vàng, đội chiếc mũ chào mào và đeo hững hờ cặp lon ba bông mai bạc trên đôi vai gầy guộc khi ông bước lên lễ đài trong buổi bàn giao.
Sau đó, chẳng biết ông để quên cặp lon ở đâu mà chỉ thấy ông đến nhiệm sở trong bộ cảnh bèo nhèo, quần dài, áo sơ mi cộc tay và đôi dép nhựa lẹp xà lẹp xẹp.
Ngay cả khi lên cấp tướng trang phục cũng vẫn thoải mái như vậy. Có ai cắc cớ hỏi ông ngôi sao để đâu, ông chỉ tủm tỉm trả lời:
– “Ngôi sao tớ gửi trên trời!”
Thời gian đó, tôi đang làm việc tại sở Tâm Lý Chiến dưới quyền chỉ huy của chánh sở Vỏ Lương, một quận trưởng CSQG có nhiều thâm niên công vụ và dày dạn kinh nghiệm. Ông vừa có tài ứng biến lại vừa khéo léo trong cách ứng xử với mọi người..
Tướng Loan ngồi chức vụ chưa được bao lâu thì miền Trung và thủ đô Saigon bỗng bùng lên những cuộc chống đối chính phủ do nhà sư Thích Trí Quang phát động nhằm hạ bệ tướng Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi chức vụ chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương.
Miền Trung ồn ào biểu tình, lính tráng công chức thi nhau rã ngũ đào nhiệm!
Thành phố Saigon, vang động hò hét xuống đường, phố xá ngỗn ngang bàn thờ Phật!
Trước cảnh dầu sôi lửa bỏng, tướng Loan đã tức tốc điều động một số sĩ quan an ninh quân đội và một số viên chức CSQG ra miền Trung để thay thế những cấp chỉ huy nhút nhát bạc nhược hoặc bị lôi cuốn vào những âm mưu đen tối. Những người được ông tuyển chọn đều có đầy đủ khả năng ứng phó và lòng can đảm dám gồng mình chấp nhận những hậu quả rủi ro đến với bản thân. Ðiển hình cho những nhân tố tích cực này là quận trưởng Vỏ Lương được bổ nhiệm giám đốc nha CSQG vùng I, quận trưởng Trần Minh Công giữ chức vụ trưởng ty CSQG Ðà Nẵng.
Tại thủ đô Saigon, tướng Loan đã cương quyết làm tròn sứ mạng của mình không phải bằng cách ngồi tại văn phòng chỉ tay hò hét ra lệnh mà bằng cách đưa cá nhân mình vào nơi sôi động. Vị tướng không giày không lon đó đã chấp nhận những ngày giờ sống bụi đời trên đường phố, sát cánh cùng đội ngũ nhân viên, trực tiếp nhận trách nhiệm và chia xẽ nỗi gian nan nhọc nhằn cùng thuộc cấp. Từng nơi từng lúc, ông tiến thẳng đến đám đông cuồng nộ, giải thích thuyết phục ai về nhà nấy, đồng thời kính cẩn vái lạy trước các bàn thờ Phật, xin phép được đưa ảnh tượng hương khói trở lại chùa chiền cho xứng đáng với vị trí trang nghiêm thờ phượng.
Bóng đen u ám của một biến cố ngậm ngùi đã được xua đi, Saigon và miền Trung lại rạng lên những tia sáng thanh bình.
Tướng Loan sau đó, đã thi hành quyết định của Hội Ðồng Quân Lực đích thân tiễn đưa “người hùng” Nguyễn Chánh Thi lên đường sang Mỹ chữa bệnh “thối mũi”, một căn bệnh thâm căn cố đế, hiểu theo nghĩa bóng, mà ông này đã nhiễm từ ngày 1-1-1960 sau cuộc đảo chánh hụt tổng thống Ngô Ðình Diệm.
Lần đầu tiên tôi được tháp tùng tướng Loan là dịp đi theo ông chánh sở Tâm Lý Chiến làm tin cho buổi phát quà Trung Thu tại cô nhi viện Gò Vấp.
Khi xe chúng tôi vào trong sân cục An Ninh Quân Ðội, đã thấy tướng Loan ngồi chờ sẵn trên xe Jeep lùn của ông, miệng phì phèo điếu thuốc, tay cầm chai bia 33 lắc qua lắc lại. Ông Dẫn tiến đến đứng nghiêm toan giơ tay chào thì tướng Loan phất tay như ra hiệu bảo về xe đi và nói:
– “Thôi, mình đi chứ.”
Lúc sắp khởi hành, tướng Loan bỗng xuống khỏi xe, tiến về phía chúng tôi và nói với tài xế của ông Dẫn:
– “Chú em ra ngồi phía sau, để tớ lái xe cho ông chánh sở.”
Trước một tình huống quá bất ngờ, ông Dẫn bị lúng ta lúng túng, chỉ còn biết ngồi cứng người như tượng gỗ, hai tay thu gọn trong lòng bắp vế. Tôi và tài xế đã phải nín cười đến đau cả bụng.
Tới cổng cô nhi viện, tướng Loan rời bỏ tay lái, lè phè lê đôi dép nhựa đi cạnh ông chánh sở uy nghi sắc phục lon mũ chỉnh tề đang giơ tay chào hàng quân tiếp đón. Thình lình, ông trưởng chi Gò Vấp, người phụ trách dàn chào chạy đến bên tôi hỏi nhỏ:
– “Nghe nói có chuẩn tướng đến, sao giờ này chưa thấy?”
Tôi chỉ tay về phía trong và nói:
– “Ông tướng kia kìa, người mặc thường phục đó.”
Trưởng chi thảng thốt kêu lên:
– “Chết cha! Tôi cứ tưởng đó là anh tài xế của ông chánh sở!”
Tướng Loan là vậy đó! Một con người bình dị, không câu nệ hình thức, không đặt nặng lễ nghi.
Hôm đó, chính vị tướng tổng giám đốc CSQG là người đã tạo nên một bầu không khí đầy ấm cúng, sưởi ấm những tâm hồn trẻ thơ sớm mang một số phận hẩm hiu từ lúc chào đời khi ông đến trọ chuyện nâng niu vỗ về và tặng quà cho từng em nhỏ. Câu ví: “Tướng Loan hiền như ma-sơ” có lẽ từ đó mà ra.
Thời gian sau, tôi được điều động về làm phóng viên cho toà soạn nguyệt san Rạng Ðông dưới quyền chỉ huy của đại tá Trần Văn Thăng, phó tổng giám đốc kiêm chủ nhiệm, thiếu tá chánh văn phòng Vũ Huy Ðức kiêm chủ bút và biên tập viên Nguyễn Hồng Nhuận Tâm giữ vai trò tổng thư ký.
Số báo đầu tiên vừa phát hành xong, bỗng anh Nguyễn Hồng Nhuận Tâm xin từ nhiệm, kéo theo hai nhân viên khác làm theo. Toà báo bảy người, giờ mất hết ba, bốn anh em còn lại cảm thấy buồn buồn, mặt ai cũng chảy dài như mặt ngựa.
Một buổi chiều, thiếu tá Ðức gọi chúng tôi, ông chậm rãi nói:
-“Người ta không muốn làm, ông tướng cũng không ép. Mấy anh em còn lại cố gắng làm cho tốt.”
Rồi ông quay sang tôi khẽ bảo:
– “Ðây là lệnh ông tướng, cậu sẽ làm tổng thư ký toà soạn. Mai sẽ có giấy tờ chính thức. Nếu cần thêm người, cứ cho tôi biết, văn phòng sẵn sàng giúp đỡ.”
Hôm sau, tôi lập phiếu trình xin thêm hai nhân viên bổ sung cho toà soạn. Một có khiếu về ăn nói, quần áo lúc nào cũng chỉnh tề, sẽ phụ trách đi xin quãng cáo để bảo đảm có đủ tiền trang trãi ấn phí. Một có tài về hội hoạ lãnh phần trang trí và sắp xếp bài vỡ. Cả hai đều mang cấp bậc khiêm nhường phó thẩm sát viên. Tướng Loan đã chấp thuận ngay với lời phê “OK, viết cho beau (hay) vào.”
Hơn nữa tháng trời, anh em chúng tôi đã liên tục vật lộn với công việc. Phần tôi, khi về nhà lại phải lo đến nhà các ông Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng & để lo xin bài vỡ. Nói chung, tất cả mọi người đều nô nức làm việc, cố gắng tranh thủ thời gian để nguyệt san được ra đúng ngày cuối tháng.
Chuyện đời có lắm cái kỳ thú và trớ trêu bất ngờ!
Khi số báo mới vừa được xuất xưởng khỏi nhà in Xây Dựng, tôi được thiếu tá chánh văn phòng gọi lên tươi cười cho biết tướng Loan quyết định thưởng cho anh em chúng tôi mỗi người một chút tiền bồi dưỡng. Nói là một chút chứ thực ra rất rộng rãi khiến ai cũng phải ngạc nhiên. Ưu đãi đó sau trở thành thông lệ làm ông chánh sở Tâm Lý Chiến Trần Văn Ðệ thốt lên:
– “Mỗi thằng làm báo là một ông vua!”
Vài anh ký giả báo ngoài nghe được tin này, ùn ùn kéo đến xin với tướng Loan cho đóng góp công sức với tờ nguyệt san không cần nhuận bút mà chỉ cần tướng Loan ký cho một giấy chứng minh thư cộng tác để đi đây đi đó cho tiện. Ông cảm ơn thiện chí của họ, nhưng không chấp thuận ngay mà lại uỷ thác việc cấp giấy cho thiếu tá chánh văn phòng. Ông này lại giao phó cho tôi xem xét đề nghị. Tôi nghĩ có điều gì không ổn, nên cứ tà tà ngâm việc dù họ đã giục tôi mấy lần.
Bừng một buổi sáng, thiếu tá Ðức ra lệnh cho tôi huỷ bỏ việc cấp giấy chỉ vì hai tay ký giả Quốc Quân và Kỳ Hùng đã có những đòi hỏi quá đáng, người thì xin bao thầu quảng cáo cho tờ báo, người thì dẫn ông kia bà nọ đến xin giúp đỡ áp phe này áp phe kia khiến tướng Loan bực mình không bao giờ cho gặp nữa.
Bất ngờ, vài bữa sau, ký giả Duyên Anh tức Vũ Mộng Long, dưới bút hiệu Thương Sinh, đã phạng anh em chúng tôi bằng một bài báo nhếch nhác trong mục “Sống Sượng” của nhật báo Sống do ông Chu Tử làm chủ nhiệm. Nội dung bài báo đầy tính chất tưởng tượng, moi móc lung tung, nào là chúng tôi làm việc lề mề chậm chạp, nào là văn phòng làm việc vắng như chùa bà Ðanh.
Tôi đọc bài báo thấy nóng cả mặt nên chạy ngay ra toà báo Sống tìm gặp Duyên Anh để hỏi cho ra lẽ. Một vài người quen cho tôi biết DA đi khỏi và hỏi tôi tìm anh ta có việc gì. Tôi than phiền về bài báo rồi lặng lẽ ra về .
Hai hôm sau, vừa bước vào sở đã nghe anh em kể lại vừa rồi ông chánh sở Tâm Lý Chiến Trần Văn Ðệ đến hỏi từng bàn xem ai là người đã đến toà soạn báo Sống tìm Duyên Anh. Tôi vội gõ cửa xin vào và nói cho ông biết tôi chính là người ông muốn tìm.
Ông không nói gì, lặng lẽ thảy ra trước mặt tôi tập phiếu trình điểm báo và lạnh lùng bảo:
– “Chú đọc đi.”
Cũng vẫn bài báo trong mục “Sống Sượng” của Thương Sinh với tựa đề “Xin cho tôi một tuýp Optalidon” . Optalidon là loại thuốc trị nhức đầu, nếu uống nhiều sẽ bị chết. Trong bài báo, Duyên Anh cũng chính là Thương Sinh tự cho mình là một ký giả chân chính có thiện chí nên mới viết bài chấn chỉnh lề lối làm việc của một số nhân viên sở Tâm Lý Chiến để rồi phải hứng chịu những lời chửi bới hăm doạ thủ tiêu của một “bạn dân” đến từ sở này v.v….
Thật là một sự vu cáo quá sức tưởng tượng. Ngay chuyện Duyên Anh đề quyết nhóm chúng tôi là nhân viên sở Tâm Lý Chiến cũng đã không đúng sự thật vì sở này chỉ là nơi tạm trú của chúng tôi để làm việc, chỉ tội cho sở Tâm Lý Chiến tự nhiên bị mắc hàm oan.
Tôi nói với ông Ðệ:
– “Xin ông chánh sở cứ trình bài báo lên chuẩn tướng, tôi xin nhận lãnh mọi trách nhiệm.”
Sau đó, tôi lên gặp thiếu tá Ðức trình bày tự sự và xin ông cho tôi được vào yết kiến chuẩn tướng tổng giám đốc. Ông đồng ý ngay và bảo tôi ngồi để ông vào trình trước.
Vào trong, tôi thấy tướng Loan đang đọc bài báo, ông ngẩng mặt lên ra lệnh cho tôi ngồi. Thú thật lúc đó tim tôi đập thình thịch, tự hỏi chưa biết hậu quả sẽ ra sao.
Ðọc xong bài báo, ông nhìn tôi và hỏi:
– “Làm gì mà hăng quá vậy? Bộ cậu muốn giết ký giả chân chính sao?”
Tôi trình những ý nghĩ của mình đối với bài báo trước và mọi diễn tiến về việc đi tìm ký giả Duyên Anh.
Nghe xong, tướng Loan gấp tập hồ sơ điểm báo và phán một câu:
– “Cậu hãy tìm ngay gã ký giả này, bợp tai cho hắn ba cái. Nhớ nói với hắn đây là lệnh của tướng Loan. Thôi, hãy về yên tâm làm việc.”
Tôi đứng lên chào ông rồi ra khỏi văn phòng với một tâm thái nhẹ nhàng cùng niềm cảm kích kính mến sâu xa trước tấm lòng của một vị tướng dám đem tên tuổi của mình để bênh vực nỗi oan cho một nhân viên nhỏ bé như tôi.
Sau đó, tôi không dám làm theo lời ông, nhưng vẫn đi tìm Duyên Anh để nói cho hắn biết. Hắn trốn như con cáo, tôi đành gặp ông Chu Tử và cha Lãm, chủ nhiệm báo Sống và báo Xây Dựng để bắn tin cho họ biết nỗi bực bội của tướng Loan đối với những gì Duyên Anh đã viết một cách độc ác về chúng tôi.
Vài bữa sau, mục “Sống Sượng” đã biến mất trên nhật báo Sống.
Vào những ngày tháng giữa năm 1967, thời kỳ tiền bầu cử Tổng Thống, tôi được tướng Loan gọi ra gặp riêng ông hai lần tại cục An Ninh Quân Ðội để gợi ý cho tôi viết một số bài quan điểm liên quan đến cuộc vận động bầu cử đồng thời ông cho biết một số kỹ xão sẽ áp dụng trong việc thông tin tuyên truyền yểm trợ cho một liên danh. Tôi xin mạn phép không kể ra đây vì người được ông ủng hộ đã làm ông quá thất vọng đến nỗi có lúc ông phải kêu lên “đem bắn tên đó cho rồi.”
Ðối với người bạn đồng minh Hoa Kỳ, tướng Loan không tin cậy cho lắm từ khi CSQG bắt một người có dấu tích là một cán bộ Việt Cộng nội tuyến trong toà đại sứ Hoa Kỳ mà toà đại sứ này cứ khăng khăng đòi thả. Bực mình vì người Mỹ quá xen sâu vào nội bộ Việt Nam nói chung và hoạt động CSQG nói riêng, tướng Loan xin từ chức, nhưng tổng thống Thiệu không chấp thuận.
Nhưng ngày giáp tết Mậu Thân, trong lúc đồng bào đang nô nức chuẩn bị đón Xuân, tướng Loan đã âm thầm cùng đoàn tuỳ tùng rong ruổi đến thăm các ty CSQG xa xôi hẻo lánh, những nơi được mệnh danh là chốn khỉ ho cò gáy, ngày đêm phải đương đầu với những áp lực quấy phá của lũ phiến cộng bạo tàn. Phước Long, Bình Long, Kiến Tường, Kiến Hoà, Nhinh Thuận, Quãng Ðức, Hậu Nghĩa là những nơi tôi được theo gót chân ông.
Mỗi buổi sáng, chúng tôi tụ tập tại tư dinh của ông trong trại Phi Long, Tân Sơn Nhất để rồi từ đó lên hai chiếc trực thăng đến các nơi trên. Ông đến để nắm rõ tình hình địa phương, để thăm hỏi nhân viên các cấp và để tặng chút tiền làm tiệc tất niên cho anh em.
Ðến bất cứ đơn vị nào, ông đều đi quanh xem xét hệ thống phòng thủ và cho ý kiến tại chỗ. Với các đơn vị có nhiều vọng gác xây bằng bê-tông kiên cố, ông nhẹ nhàng nhắc nhỡ:
– “Nước mình nghèo, phải đánh giặc theo lối nhà nghèo, ụ bê tông cứng nhưng không chịu đựng loại đạn xuyên phá, tốt hơn nên dùng nhiều bao cát vừa đỡ tốn kém lại vừa an toàn.”
Những ngày giờ đi theo, tôi thấy ông sống và làm việc như một con thoi, quên cả giờ giấc với gia đình, quên cả những cơn đau bao tử và quên cả những hiểm nguy đến với bản thân.
Một lần, ngồi trên máy bay, dáng vẻ mỏi mệt, ông che miệng ngáp dài rồi nói một cách tự nhiên:
– “Tối hôm qua tớ chẳng ngủ được chút nào, bà ấy cằn nhằn cả đêm chỉ vì làm việc mà quên đi lời hứa về đúng giờ để cùng ăn một bữa cơm với gia đình.”
Hình như cách ăn uống của ông cũng đơn giản như cách ăn mặc. Trong các bữa ăn tại các ty CSQG hoặc tại các toà tỉnh trưởng, tuy có đủ thịt cá, rượu Tây thuốc Mỹ trên bàn, tôi vẫn chỉ thấy ông nhâm nhi một tô hủ tiếu hoặc tô bún canh bên cạnh chai bia 33 và gói thuốc lá Ru-by màu hồng.
Nói về máu “liều” của tướng Loan chắc ít ai bì kịp. Tôi nhớ lần đến thăm ty CSQG Hậu Nghĩa , sau khi dùng bữa cơm khét do đại tá tỉnh trưởng Mã Sanh Nhơn thết đãi, ai ai cũng chuẩn bị lên trực thăng ra về. Lúc đó vào khoảng 3 giờ chiều, bỗng tướng Loan đổi ý, ông bảo hai phi công lái trực thăng về trước để ông và đoàn tuỳ tùng dùng đường bộ cho thoải mái. Cái quyết định “bốc đồng” đó đã báo hại trưởng ty Ngô Văn Huế phải một phen hết vía chỉ vì con đường độc đạo đó thường bị Việt Cộng gài mìn phục kích bất ngờ.
Trời cuối Ðông, mặt trời muốn đi ngủ sớm thế mà tướng Loan cứ nhất định phải ghé thăm một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến nơi mà các nhân viên của ông đã oanh liệt chống trả một cuộc tấn kích của giặc thù vào đêm hôm trước. Ông đến bắt tay từng chiến sĩ, ngợi khen tinh thần quả cảm và ghi công trạng của tất cả mọi người.
Chiều hôm đó, khi về đến nhà, ông kéo chúng tôi vào một căn phòng nhỏ, chỉ vào hai thùng giấy lớn và khoe:
– “Ðây là số pháo hồng do một người bạn ở Hồng Kông gữi biếu.”
Nói xong, ông tự tay mở một thùng phát cho mỗi người ba phong, ngoại trừ thiếu tá Tiến, chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh đang ngẩn tò te chìa tay ra hỏi:
– “Còn phần của em đâu?”
Tướng Loan không đưa pháo mà còn cười hỏi lại:
– “Cậu hả? Chuyện đó tính sau. Cậu về tắm rửa sạch sẽ rồi lên đây cùng tôi khuân thùng pháo đây ra dinh Ðộc Lập để hai ông Thiệu, ông Kỳ làm gì thì làm, nhà mình thấp lè tè treo vào đâu.”
Thiếu tá Tiến vừa gãi đầu vừa quay sang chúng tôi phân bua:
– “Các cậu thấy chưa, Chuẩn tướng thấy tôi đẹp trai nên đi đâu cũng kéo theo.”
Tướng Loan tảng lờ như không nghe, nhưng miệng lại tủm tỉm cười thích thú.
Rồi Xuân Mậu Thân đã trở về! Xuân đến từng nhà, Xuân vô giáo đường, Xuân lên đình chùa, Xuân vào lăng miếu. Hương Xuân tràn ngập mọi nơi.. Tiếng Xuân vang vọng trên đài, ngọt ngào đi vào lòng người bằng những lời thơ cung nhạc chúc tụng một năm mới an khang hạnh phúc.
Nữa đêm về sáng của ngày đầu năm, giữa lúc khói hương thiêng liêng còn đang nghi ngút thì bỗng nhiên từng loạt âm thanh của súng đạn vang lên khiến ai nghe cũng phải bàng hoàng kinh động.
Thoạt đầu, tôi cứ nghĩ đó là một cuộc đảo chánh nên vội vặn radio để nghe tin tức. Im lặng và im lặng! Ðài không phát ra một tiếng nói hay một lời ca. Trong khi đó, từng loạt đạn vẫn tiếp tục vun vút bay trên nóc nhà kèm theo tiếng la oai oái “Vi Xi! Vi Xi!” của những người lính Mỹ đóng quân trong khu nhà của bà Bút Trà trên đường Nguyễn Huệ cạnh bên con hẻm nhà tôi. Ðêm đó, tiếng trẻ thơ cứ thét lên, sau mỗi loạt súng nổ, tôi vội đem hai cháu nhỏ, nhét chúng nằm sát dưới chân cầu thang còn mình và vợ ngồi bó gối ngay bên cạnh để chờ trời sáng.
Khoảng sáu bảy giờ sáng, đài bỗng vang lên tiếng nói của phó Tổng Thống Kỳ, nội dung vắn tắt cho biết Cộng Sản đã bội phản những cam kết hưu chiến trong ba ngày Tết, xua quân tổng công kích 32 tỉnh lỵ và thủ đô Saigon. Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã đích thân chỉ huy lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến và quân đội quét sạch cộng quân ra khỏi đài phát thanh Saigon từ lúc 4 giờ sáng.
Tôi vừa mở cửa đã thấy bốn cán binh Cộng Sản tay ghìm súng AK, băng đạn quấn quanh mình, đứng khuất trong hè nhà tôi và các nhà đối diện, mắt đăm đăm nhìn ra đường cái. Không hiểu sao lúc đó tôi lại tỏ ra rất bình tĩnh, bình tĩnh quan sát trang phục của họ và còn thầm nghĩ họ là những binh sĩ thuộc một đơn vị chính quy nào đó chứ không phải là quân du kích.
Cùng lúc, một số đông đồng bào từ trong các hẻm sâu phía trong ùn ùn bồng bế dắt dìu người già con trẻ chạy ra, mặt người nào cũng xanh như tàu lá. Họ vừa đi vừa thông báo cho mọi người biết lính Việt Cộng về nhiều lắm, tràn ngập trong khu Cây Quéo, khu phía sau chùa Quảng Ðức, khu gò mả và khu đường rầy dẫn đến Cầu Hàng.
Tôi vội quay vào nhà, quơ quào ít quần áo rồi cùng vợ con lên xe máy đến nhà người quen ở chợ Tân Ðịnh. Ðến nơi, tôi mới chợt nhớ để quên bóp giấy tờ ở nhà, đành phải một mình quay lại.
Về tới đầu hẻm, một người cùng xóm ở phía ngoài khuyên tôi đừng vào vì mới tức thì có mấy nhân viên Cảnh Sát sắc phục đã bắn nhau với lính Việt Cộng ở phía trong. Lúc đó, trực thăng võ trang đã xuất hiện. Hai con chuồn chuồn bay lên xà xuống khạc đạn ào ào vào những mục tiêu. Ðạn dưới bắn lên, đạn trên bắn xuống, trận chiến cứ thế tiếp diễn vô cùng ngoạn mục. Tôi rời khỏi xóm mà lòng cứ nơm nớp lo sợ căn nhà mình bị ăn đạn phá.
Ðến tổng nha CSQG, tôi nhận lệnh đi cùng một nhiếp ảnh viên lên vùng ngã Bảy nơi tướng Loan đang trực tiếp chỉ huy các đơn vị Cảnh Sát và quân đội bao vây cô lập và tiểu trừ các đám Cộng quân xâm nhập. Ông mắc đồ trận, áo giáp khoác ngoài, đầu không nón sắt, sông pha vào nơi súng nổ đạn rơi như một người lính can trường không nề nguy hiểm.
Phải nói rằng, trận chiến nơi đây đã diễn ra ác liệt ngay từ những giây phút ban đầu trên một địa hình rộng lớn bao gồm các khu vực Phú Thọ, Nguyễn Tri Phương, hẻm Chuồng Bò, Vườn Lài ….
Khởi đầu, Việt Cộng tấn công vào doanh trại của Biệt Ðoàn 222 Cảnh Sát Dã Chiến ở góc đường Nguyễn Văn Thoại và Trần Quốc Toản giữa lúc toàn thể nhân lực ứng chiến được điều động đi giải toả đài phát thanh Saigon, số nhân viên phòng thủ còn lại khoảng hơn bán tiểu đội. Lợi dụng thời cơ, Việt Cộng tập trung lực lượng ào ạt xua quân từ phía vườn ươm cây ở góc đối diện toan chiếm cho bằng được doanh trại này. Nào ngờ, các chiến sĩ CSDC đã bình tĩnh nã từng loạt đại liên khiến chúng không sao vượt qua nhã tư, đành phải mang theo một số thương vong rút về khu chợ Thiếc.
Cũng thời gian đó, một số lớn cán bộ VC nằm vùng cùng các tên chỉ điểm giả dạng nhân dân nổi dậy chia nhau chặn đường chặn ngõ lùng xục trong các khu dân cư bắt bớ một số quân nhân, Cảnh Sát và công chức dem ra xử bắn với lời kết tội “có nợ máu với nhân dân”
Tôi có một người em họ là đại uý Quân Y cũng bị bắt vào đêm đó. Chúng lột trần em tôi, trói rặt cánh khuỷu toan đem xử bắn. Trong lúc thế cùng, em tôi la lên:
– “Tôi là bác sĩ quân y bị trưng dụng vào quân đội, không hề có nợ máu.”
Tên chỉ huy nghe vậy, bèn nói:
– “Nó còn dùng được, đưa nó ra chỗ thương binh.”
Lúc băng bó cho các cán binh VC, em tôi đã lẩn vào nhà dân trốn thoát.
Ngày 1-2-1968, tướng Loan đã xử bắn tên cán bộ Cộng Sản Nguyễn Văn Lém tức Bảy Lém, bí danh Ba Lốp ngay trên đường phố khu ngã Bảy để rửa hận cho những đàn em của ông đã bị tên này sát hại.
Ngay chiều hôm đó, tôi rủ hai người bạn phóng viên báo ngoài đánh một vòng đảo qua kinh Ðộc Lập, toà đại sứ Mỹ trên đường Thống Nhất. Hai phóng viên cho biết có chụp một vài hình ảnh binh sĩ VC chết trên lề đường và trong khuôn viên toà đại sứ.
Từ đó chúng tôi xuống đường Hai Bà Trưng nồi rẽ vào đường Phan Thanh Giãn tìm về xa lộ. Bên lề con lộ thênh thang, năm bảy xác cán binh Cộng Sản nằm ngữa trơ trơ với sợi dây thừng cột cứng ở cổ chân. Họ được đồng đội kéo đi, nữa chừng bỏ lại.
Ðến khu Hàng Sanh, chúng tôi rẽ về khu lăng Tả Quân tiến đến đường Ngô Tùng Châu để nhập vào khu Cây Quéo. Ðường xá trong khu vực này vắng teo vắng ngắt, cả ba chúng tôi bắt đầu thấy lạnh xương sống khi phát hiện ra một số xác bộ đội Cộng Sản nằm rải rác khắp mọi nơi trong vườn ngoài ngõ. Tôi run cả người, chỉ muốn quay lại. Nhưng trót vào sâu rồi, đành chịu. Ba xe gắn máy của chúng tôi cứ luân phiên đổi chỗ, anh nào cũng muốn mình vào giữa.
Bất ngờ, từ trong căn nhà có khu vườn rộng vang lên tiếng gọi:
– “Các chú ơi! Xin vào giúp một tay.”
Chúng tôi vừa ngừng xe, một bà và hai thiếu niên chạy ra kéo chúng tôi vào nhà, chỉ cho thúng tôi thấy hai xác Việt Cộng đặt trên bộ ván gõ với tờ giấy viết nguệch ngoạc “nhờ đồng bào chôn cất giùm”
Bà giơ tay phàn nàn:
– “Thiệt là khổ! Chết rồi thì để bên ngoài cho xong, đem vào nhà làm chi cho đám nhỏ sợ hết hồn hết vía. Bây giờ tôi nhờ các chú khiêng họ ra ngoài đường để chính quyền chôn cất.”
Anh em chúng tôi làm giúp bà, lòng thấy áy náy tội nghiệp cho những người lính bên kia bị bọn đầu sỏ độc tài xô đẩy họ vào nơi tử địa.
Mặt trận vùng ngã Bảy đã gần như đi vào kết thúc. Cộng quân ở nơi này, một số bị bắt, một số ra chiêu hồi, số còn lại co cụm trong khu dân cư đong đúc như cá nằm trong rọ chờ ngày bị tóm.
Khi tướng Loan ra lệnh cho Cảnh Sát và quân đội khai pháo dứt điểm toàn bộ thì cái đám tàn binh ngoan cố đó đã giở một thủ đoạn đê hèn, táng tận lương tâm. Chúng khống chế cư dân không cho ra ngoài đồng thời dùng xăng đốt nhà gây nên những đám cháy mịt mù khói lửa để trà trộn trong dân tìm đường tẩu thoát. Nhiều xe cứu hoả đước điều động đến. Lúc đầu, các nhân viên chữa cháy rất rụt rè e ngại chưa dám áp sát vào nơi súng đạn thét gầm, tướng Loan đã phải giựt lấy vòi rồng phun nước lên cao khống chế từng cơn bão lửa. Hình ảnh hiên ngang đó, tôi đã dùng làm bìa cho Nguyệt San Rạng Ðông trong số báo đầu năm Mậu Thân.
Hàng trăm cán binh địch đã bị bắt lôi ra tập trung trước tiệm đò gỗ trên lề đường Minh mạng trong trận đánh cuối cùng ở khu vức ngã Sáu trước sự chứng kiến của tướng Loan. Ông đi loanh quanh quan sát từng người. Thấy ai bị thương nặng, ông nhắc nhở nhân viên y tế băng bó gấp cho họ và chuyển đến bịnh viện ngay.
Ngày hôm sau, tướng Loan đã cùng đại tá Ðô Trưởng Văn Văn Của đến thị sát mặt trận tại quận 8 bên kia cầu chữ Y. Phái đoàn đã dùng con đường đi qua cầu xóm Củi men theo đường Phạm Thế Hiển tiến đến ty CSQG quận 8. Ðây là một ty CSQG nằm ở vị trí ven đô trên một diện địa trống trải đồng ruộng mênh mông và sông rạch chằng chịt.
“….Khởi đầu, Cộng quân dàn binh ngay trên đồng ruộng ở phía sau ty, bắn hạ một nhân viên Cảnh Sát gác trên chòi cao đồng thời dùng B40 chóc thủng một lô cốt ở góc trái phía sau với ý đồ cho vài đắc công chui qua lỗ hổng tung lựu đạn và trái phá gây náo loạn phía trong trước khi xua quân chiếm lĩnh mục tiêu. Một vài nhân viên Cảnh Sát “điếc không sợ súng” đã bò ra lô cốt phục sẵn phía trong tỉa từng tên một và lấy xác chúng chèn vào lỗ hổng. Ðội hình phòng thủ trong ty đã được củng cố, bình tĩnh chống lại từng đợt tấn công để chờ lực lượng tiếp viện. Trời gần sáng, trực thăng võ trang xuất hiện đổ rốc-kết và đại liên lên đầu giắc khiến chúng phải rúc vào các khu dân cư ẩn náu và rút về khu vực phường Rạch Ông mang theo một số thương vong đồng đội chất lên ghe thuyền luồn trốn trong các kinh rạch……”
Trên đây là lời kể lại của phó ty Khưu Ngọc Ða, một người bạn cùng khoá 14 Biên Tập Viên Rạch Dừa với tôi, trong lúc đoàn xe di chuyển từ ty CSQG đến vùng Rạch Ông.
Anh Ða đang thao thao bắt tuyệt, bỗng một loạt đạn AK vun vút lướt trên nóc xe, anh vẫn giữ vững tay lái tiếp tục mối theo phái đoàn và quay sang tôi cười khì khì sảng khoái như thầm hỏi tôi “sợ không?”
Chiến cuộc tại thủ đô Saigon đã hoàn toàn chấm dứt sau ngày hôm đó, nhưng lòng tôi vẫn không sao quên được những hình ảnh điêu tàn do Cộng quân gây ra. Hình ảnh thương tâm mà tôi không thể nào quên là hình ảnh một gia đình năm người co quắp ôm nhau chết cháy tại khu Nguyễn Thiện Thuật gần chợ Bàn Cờ…
Gần một tháng sau, tôi và một nhiếp ảnh viên lại được một dịp theo chân tướng Loan phi hành ra Huế. Chuyến đi vỏn vẹn có một ngày. Ông trở về cái nơi chốn mà ông đã sống trong những ngày niên thiếu không phải để tìm lại cảnh xưa chốn cũ mà là để chia xẻ những đau thương mất mát của tất cả mọi người ở chốn cố đô.
Vừa ra khỏi phi trường Phú Bài, tướng Loan đã cùng giám đốc Võ Lương bắt tay vào việc ngay. Ông đến thăm các đơn vị Cảnh Sát, ngậm ngùi nhìn những nấm mồ chôn tạm ngay trong khuôn viên của cơ quan. Ngay sau đó, ông cùng các viên chức CSQG địa phương rong ruổi trên đại lộ Lê Lợi vượt qua cầu Bạch Hổ, men theo bờ sông Hương, vượt qua cửa Thương Tứ đến chợ Ðông Ba rồi qua Gia Hội để động viên tinh thần những nhân viên Cảnh Sát Quốc Gia đang tham gia xây dựng cư xá Tình Thương. Ðây là một công trình do ngành CSQG đài thọ từ A đến Z mà tướng Loan coi đó như một món quà trao tặng đến các gia đình đồng bào nạn nhân chiến cuộc đang gặp quá nhiều khó khăn.
Chiều về, khung cảnh cố đô mới ảm đạm làm sao! Phố xá thưa thớt bóng người, nhà nhà cửa đóng then cài. Ðất Thần Kinh ủ rũ như một người bịnh chưa hồi lại sức. Cầu Tràng Tiên gục đầu trên mặt Hương Giang như cùng thì thầm thổn thức tiếc nuối cho những ngày thơ mộng thuở nào:
Ðâu rồi những mái tóc thề thả gió lê thê?
Ðâu rồi những tà áo trắng bay bay vào mỗi buổi chiều?
Ðâu rồi những nón bài thơ nghiêng che đôi má ửng hồng?
Ðâu rồi những giọng hò mái nhì ngọt lịm đến tim?
Ðâu rồi những tiếng rao hàng như mời như gọi trên sông?
Ðâu rồi những khuôn mặt thân quen bị giắc bắt đi vùi dập nơi nào?
Tôi đứng trên đầu cầu phía chợ Ðông Ba nhìn xuống phía dưới thấy hai em gái nhỏ khoảng chín mười tuổi mặc áo màu hồng đang đưa đôi bàn tay bốc từng bụm cát đắp lên hai ngôi mộ mới. Tự nhiên tôi thấy tim mình se thắt lại, thầm cầu mong đó không phải là chỗ ở của cha mẹ các em.
Sau một đêm không ngủ, sáng hôm sau chúng tôi lại theo gót tướng Loan trở về Saigon. Tôi vội ghi bài ký sự “Một ngày ở Huế” cho số báo tới với hai câu thơ mộc mạc mở đầu:
Ngày xưa Huế đẹp Huế mơ
Bây giờ Huế bị xác xơ điêu tàn.
Cuộc tổng công kích vào những ngày tết mậu Thân đi vào kết thúc với những kết quả vô cùng thê thảm. Hơn sáu mươi ngàn cán binh đối phương bị loại khỏi vòng chiến kéo theo bao nhiêu sinh mạng của đồng bào vô tội bị chúng sát hại và để lại một đống hoang tàn trên khắp miền Nam tự do.
Vài tháng sau, bọn lãnh đạo ngoan cố bất nhân Cộng Sản miền Bắc lại xua đám tàn quân tiến hành một trận tổng công kích đợt hai giữa lúc nhân dân miền Nam còn đang thổn thức ngậm ngùi sau cơn ác mộng ngày Xuân.
Tướng Loan, một lần nữa cùng lực lượng Cảnh Sát thủ đô xuất trận vào lúc 4 giờ sáng tiến thẳng về trại gà Thanh Tâm bên xa lộ ngăn chặn không cho địch quân tấn chiến đài phát thanh Saigon.
Tám giờ sáng hôm đó, tôi và một nhiếp ảnh viên được lệnh lên đường thu lượm tin tức. Ðến cầu Phan Thanh Giản, thấy súng bắn rát quá, người tài xế nhất định quay xe trở lại.
Ba giờ chiều cùng ngày, tin tức từ Trung Tâm Hành Quân cho biết tướng Loan đã bị trúng đạn gẫy chân và được đưa về điều trị tại bệnh viện.
Ðễ giữ vững tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ đang chiến đấu và đánh tan các lời đồn đãi bất lợi, thiếu tá chánh văn phòng đã cho chụp một bức hình tướng Loan đang nằm trên giường bệnh, nói trong máy bộ đàm phổ biến trên các nhật báo với lời chú thích “Mặc dù bị thương, tướng Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc CSQG vẫn tiếp tục chỉ huy các lực lượng hành quân truy quét giặc Cộng.
Cùng thời gian này, một biến cố đau lòng đã xảy ra tại trường Phước Ðức trên đường Khổng Tử thuộc quận 5 Chợ Lớn. Khoảng bốn năm giờ chiều, bộ tham mưu hành quân CSQG đang họp tại trường này bỗng lãnh một trái đạn rốc-kết từ trên trực thăng Mỹ bắn xuống gây tử thương cho đại tá Luận, giám đốc nha CSQG thủ đô; quận trưởng Nguyễn Ngọc Xinh, phụ tá giám đốc nha CSQG thủ đô; thiếu tá Lê Ngọc Trụ, trưởng ty CSQG quận 5 cùng một số sĩ quan khác bị thương trong đó có đại tá Trần Văn Phấn, trưởng khối Nhân Huấn thuộc tổng nha CSQG cụt một chân.
Tôi đến làm bản tin lễ truy điệu tại hội trường nha CSQG Saigon mà lòng không sao kìm được nỗi xúc động bồi hồi khi thấy thủ tướng Trần Văn Hương đứng trước các quan tài đầm đìa nước mắt.
Ít ngày sau, tướng Nguyễn Ngọc Loan âm thầm rời khỏi chức vụ để đại tá Trần Văn Hai về thay thế.
Phần tôi, sau một lần họp với thiếu tá Trần Hữu Kinh, chánh văn phòng Ðặc Biệt của đại tá tân tổng giám đốc, tôi cũng xin rút lui khỏi việc làm báo để đi một nơi xa xôi làm công tác khác.
Từ đó, tôi không gặp tướng Loan, nhưng trong lòng vẫn luôn luôn nhớ về ông, một tôn trưởng đầy quí mến trong gia đình Cảnh Sát Quốc Gia.
Tác giả: Chu Kim
13-01-2019
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.
Links:
Nguồn Email.
|
Tử Gián – Trần Trung Chính
Đăng trong: Tháng Mười 7, 2019 Filed under: Bài Đọc Hay, Biên Khảo, Phân Tách, Uncategorized | Tags: Nghiên Cứu, Tham Luận Bạn nghĩ gì về bài viết này?Bài đọc suy gẫm: Tử Gián tức gián điệp hay Ông Trùm Hoàn Hảo, tác giả Trần Trung Chính phân tách đặc biệt về nhân vật Bác sĩ Trần Kim Tuyến và một số việc liên can đến Phạm Xuân Ẩn của phe cs. với danh xưng “người điệp viên hoàn hảo”. Hình ảnh chỉ có tính minh họa.
Ảnh Bác sĩ Trần Kim Tuyến (trên) và Phạm Xuân Ẩn (dưới)
(Kính dâng hương hồn các chiến sĩ tình báo của VNCH bị thảm sát bởi những tay sai của Việt Cộng núp dưới danh nghĩa các lãnh tụ đảng phái chính trị và các lãnh tụ tôn giáo)
Từ sau năm 2005, nhất là sau khi ông Phạm Xuân Ẩn qua đời, mỗi năm vào dịp 30 tháng 4, người ta lại đăng lại bài viết của ký giả Hoa Kỳ viết về ông cùng một số bài viết của một số tác giả khác (người Việt Nam và có lẽ là phía “bên thắng cuộc”). Những người viết về ông Phạm Xuân Ẩn đã khéo tặng ông danh xưng “người điệp viên hoàn hảo” và nêu bật thành tích của ông là đã cứu thoát bác sĩ Trần Kim Tuyến – Trùm Mật Vụ của chế độ VNCH – vào lúc Sài Gòn đang trong tình trạng “dầu sôi lửa bỏng” sắp sửa rơi vào vòng tay của bộ đội Cộng Sản Bắc Việt. Những gì đã được viết ra trong quá khứ thì không sai và cũng không có gì “cường điệu” so với sự thật; nhưng đó chỉ là hình ảnh của “hiện tượng” mà không phải là chi tiết của “bản chất” trong mối liên hệ “kỳ quặc” của “điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn” với ông trùm mật vụ Trần Kim Tuyến
Cả 2 nhân vật Trần Kim Tuyến và Phạm Xuân Ẩn đều đã qua đời từ lâu, nhưng bác sĩ Trần Kim Tuyến kỳ bí hơn ông Phạm Xuân Ẩn vì bác sĩ Trần Kim Tuyến không để lại bất cứ chứng từ nào về cuộc tham gia chính trị của cá nhân ông, cũng như chưa bao giờ có ký giả nào đến “phỏng vấn” hay quay film về sự nghiệp của ông. Vì vậy tất cả những sự kiện sắp sửa được nêu ra trong bài viết này đều là những “lý đoán”, cho nên độc giả nào đòi hỏi người viết phải đưa ra những văn bản hay hình ảnh để minh họa hay dẫn chứng các sự kiện đã nêu thì người viết xin trả lời chung là “impossible”.
Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo VNCH, chức vụ chính thức của bác sĩ Trần Kim Tuyến được bổ nhiệm là “Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị”, tuy nhiên không ai biết lương bổng hay nghi vệ của bác sĩ Tuyến như thế nào, lại càng không biết “trách nhiệm và phận sự” của Sở Nghiên Cứu Chính Trị mà bác sĩ Trần Kim Tuyến là Giám Đốc. Người ta cũng có thể dịch nhóm chữ MẬT VỤ sang tiếng Anh là SECRET SERVICE (có nghĩa là dịch vụ bí mật), tuy nhiên theo thói quen sử dụng của người Mỹ, Secret Service chỉ giới hạn trong việc “bảo vệ các yếu nhân” của Hoa Kỳ. Trong khi đó, về phía người Việt, Mật Vụ có nghĩa là Công An, Lính Kín, Cảnh Sát Đặc Biệt…Trong phạm vi rộng rãi hơn, Mật Vụ cũng có thể là Phản Gián, Tình Báo Xâm Nhập, An Ninh, Đặc Vụ…theo nhận xét của người viết: Sở Nghiên Cứu Chính Trị là tiền thân của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo thời Đệ nhị Cộng Hòa. Tôi gọi bác sĩ Trần Kim Tuyến là nhân vật “Kỳ Bí ” bậc nhất của VNCH vì những lý do sau đây :
1. Không ai biết rõ lý do nào bác sĩ Tuyến đã rời Sài Gòn từ 1962 để đi làm Tổng Lãnh Sự tại Cairo (Egypt).
2. Sau 1 tháng 11 năm 1963, cũng không ai biết bác sĩ Tuyến trở lại Sài Gòn vào thời điểm nào.
3. Không thấy bác sĩ Tuyến tham chính hay trở lại làm việc trong môi trường An Ninh – Tình Báo của VNCH.
4. Người ta đồn đoán là bác sĩ Tuyến làm việc “cho” CIA (dễ hiểu là bác sĩ Tuyến không phải là tỉ phú nên phải cần có phương tiện tài chánh để hoạt động) .
5. Việt Cộng có thói quen là bôi bác bêu xấu tất cả những “lãnh đạo của VNCH” với những bài viết có văn phong của những tên viết mướn vô học và thiếu giáo dục, dù những kẻ viết mướn này đã thành danh hay chưa thành danh. Cứ xem những tài liệu mà bọn đàn em của Lê Duẩn và Lê Đức Anh công khai xuất bản để bêu riếu và hạ nhục Đại Tướng Võ Nguyên Giáp thì đủ tỏ bọn Việt Cộng sẽ hạ nhục các cấp lãnh đạo của Việt Nam Cộng Hòa như thế nào. Tuy nhiên tôi không thấy bài viết nào đề cập đến bác sĩ Tuyến, không phải bọn chúng sợ uy lực của ông (VNCH đã sụp đổ thì uy lực bác sĩ Tuyến đâu có còn hiện hữu) mà là vì chúng không có bất cứ tài liệu về ông – dù là những tài liệu của Sở Nghiên Cứu Chính Trị hay của báo chí đề cập đến những thất bại hay thành công của ông!!!
6. Bác Sĩ Tuyến vẫn ở Sài Gòn hoạt động Tình Báo, đã tiếp xúc một cách giới hạn với một số ít nhân vật có ảnh hưởng lớn về mặt quân sự và chính trị, nhưng khi ông rời Sài Gòn vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, phía bên Việt Cộng bị “chấn động”. Cũng không ai hiểu tại sao bác sĩ Tuyến lại chọn Anh Quốc (mà không phải là Hoa Kỳ) là nơi cư trú tỵ nạn, và rồi ông sinh sống ra sao cho đến ngày lìa đời khoảng 1999 – 2000 (nghĩa là gần 25 năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975).
Người viết không có tham vọng viết lịch sử hay bình luận về thân thế và sự nghiệp của bác sĩ Trần Kim Tuyến, do đó trong tầm giới hạn của trí nhớ, tôi cố gắng phác họa những dữ kiện rời rạc xuất xứ từ nhiều nguồn gốc khác nhau để độc giả có thể mường tượng ra được những chiến công của chiến sĩ điệp báo Trần Kim Tuyến trong công cuộc đấu tranh gìn giữ sự sống còn của phần đất của người quốc gia trước sự xâm lăng bỉ ổi, trắng trợn và tàn nhẫn của bọn Việt Cộng (được sự yểm trợ toàn diện của Đế Quốc Cộng Sản).
Năm 1959, tại Sài Gòn, học giả Hoàng Văn Chí đã xuất bản quyển sách với tựa đề Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc. Năm 1986, nhà báo Từ Nguyên phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí (bài phỏng vấn này được in trong tập san Tự Do số 50, đề ngày 16 tháng 11 năm 1986 và phát hành tại Bỉ – Belgium), trích đoạn:…Tôi làm việc một mình. Tôi liên lạc được với một Ủy Viên trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội…” – Hết trích.
Thực ra, cụ Hoàng Văn Chí chỉ nói một phần sự thật, toàn vẹn của sự thật như sau :
1/ Mạng lưới thu thập thông tin tình báo của Sở Nghiên Cứu Chính Trị do bác sĩ Trần Kim Tuyến lãnh đạo đã thu thập tất cả những báo chí xuất bản ở Hà Nội.
2/ Ủy Viên trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến là Ấn Độ (có một số nhân viên làm việc cho Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc) – vì vậy họ đi Sài Gòn ra Hà Nội như đi chợ, nhân viên người Ấn Độ chỉ là người chuyển hàng chứ không phải là người đi thu thập sách báo in tại Hà Nội (người Ấn Độ không đọc được tiếng Việt).
3/ Người chuyển các sách báo in tại Hà Nội không giao hàng tại Sài Gòn mà giao hàng tại Rangoon (thủ đô Miến Diện ) khi những người Ấn quá cảnh tại Rangoon trước khi máy bay đáp xuống New Dehli. Nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị làm việc trong Tòa Đại Sứ VNCH tại Rangoon mới chuyển hàng từ Rangoon trở lại Sài Gòn. Nói như cụ Hoàng Văn Chí, hàng giao tại Sài Gòn làm sao tránh được những con mắt dòm ngó của Việt Cộng nằm vùng? 3 điểm mà tôi vừa nêu trên chứng tỏ bác sĩ Trần Kim Tuyến đã làm việc với Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc từ 1955: chúng ta nhớ lại rằng đích thân Tổng Thống Eisenhower bổ nhiệm Đại Tá Landsdale cầm đầu phái đoàn Tình Báo của Hoa Kỳ đi Sài Gòn vào năm 1953 để dọn đường cho một chính quyền được Mỹ “bảo trợ” nhằm thay thế chính quyền do người Pháp đã và đang “khuynh đảo” chính quyền miền Nam. Ông Landsdale không có tiếp xúc với chính giới miền Bắc và không đặt cơ sở hoạt động của CIA tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền ngày 25 tháng 6 năm 1954 thì giải pháp chia cắt đất nước đã được bàn tán vì chiến trường Điện Biên Phủ sắp đến hồi kết thúc với sự thắng lợi nghiêng về phía Việt Cộng.
Rồi Hiệp Định Đình Chiến giữa Pháp và Việt Minh được ký kết tại Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 với 300 ngày giao thời để nhân dân miền Bắc có quyền lựa chọn “đi vào Nam” hay “ở lại miền Bắc”. Đây chính là khoảng thời gian mà bác sĩ Trần Kim Tuyến cộng tác với Sở Tình Báo Hải Ngoại Anh Quốc để thiết lập “mạng lưới tình báo” nhằm dò la tin tức của Bắc Việt.
Ngay sau khi liên danh John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson đắc cử, các chính khách của Hoa Kỳ (bao gồm cả 2 đảng Cộng Hòa và đảng Dân Chủ) đến Sài Gòn đàm đạo với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, kín đáo đưa đề nghị Hoa Kỳ đem quân đội trực tiếp chiến đấu tại Việt Nam. Mọi người đều biết là Tổng Thống Ngô Đình Diệm thẳng thừng bác bỏ lời đề nghị này. Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc biết rõ mục tiêu của Hoa Kỳ là dùng quân lực Hoa Kỳ để tiêu diệt tiềm năng chiến tranh của Bắc Việt và cũng biết rõ là Tổng Thống Diệm không cho quân đội Hoa kỳ vào Việt Nam cho nên Hoa Kỳ chắc chắn “đốn bỏ” chướng ngại vật là anh em Tổng Thống
Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Vì không có thế lực nào cản trở được ý định của Hoa Kỳ, nên Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc khuyến cáo bác sĩ Tuyến nên “lánh mặt” khỏi Việt Nam vì nếu ở lại Sài Gòn, ở vào vị thế thân cận của ông, chắc chắn bác sĩ Tuyến sẽ bị giết. Đó là lý do, bác sĩ Trần Kim Tuyến xin đi làm Tổng Lãnh Sự tại Cairo và rời Sài Gòn từ 1962 (trước ngày 1 tháng 11 năm 1963 cả hơn một năm trời ).
Sau khi Trung Tướng Nguyễn Khánh mở cuộc “chỉnh lý” vào ngày 31 tháng giêng năm 1964 để đảo chính Tướng Dương Văn Minh, bác sĩ Trần Kim Tuyến trớ lại Sài Gòn và làm việc cho Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc. Đành rằng vì sự quen biết trước, nên bác sĩ Tuyến làm việc cho Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh, nhưng bác sĩ Tuyến không làm việc cho CIA vì nguyên nhân thầm kín sau đây:
A. Làm việc với CIA thì phải trung thành với CIA, phải tuân thủ những kỷ luật của chef CIA tại Sài Gòn, trong khi làm việc cho Cơ Quan Tình Báo Anh Quốc – dĩ nhiên phải “trung thành”, nhưng bác sĩ Tuyến được toàn quyền hành động – không chịu sự điều động cai quản của chef nào cả (vì Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc chỉ lấy tin tức chứ không nhúng tay vào các hoạt động chính trị của chính quyền Sài Gòn).
B. Bác sĩ Trần Kim Tuyến muốn bảo vệ mạng lưới thâu nhận tin tức của riêng ông đã gầy dựng từ 1955 ở ngoài Bắc. Họ là những chiến sĩ chống Cộng thật sự, nên họ trung thành với cá nhân của ông. Nếu bác sĩ Tuyến làm việc cho CIA, mạng sống của các chiến sĩ tình báo này (kể cả thân nhân trong gia đình ) có thể bị lâm nguy vì CIA có thể “bán” họ hầu đánh đổi lấy tù binh Mỹ đang bị giam tại Hỏa Lò Hà Nội !!!
Tôi đoan chắc bác sĩ Trần Kim Tuyến không làm việc cho CIA vì nếu là nhân viên của CIA, ông và gia đình đã có tên trong “danh sách di tản”. Ngày 29 tháng 4 năm 1975, điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn phải đưa bác sĩ Tuyến lên phi cơ trực thăng của “các nhà báo Mỹ” !!!
Theo như ông Phạm Xuân Ẩn kể lại : sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, bác sĩ Tuyến được một Thiếu Tá – mà bác sĩ Tuyến giới thiệu là người cháu chở tới Văn Phòng của ông, nhờ ông đưa vào Tòa Lãnh Sự Mỹ để di tản…Tôi nhận thấy có những điểm “bất bình thường” như sau :
1. Bác sĩ Trần Kim Tuyến đến văn phòng ông Phạm Xuân Ẩn chỉ có một mình, có nghĩa là “vợ con và gia đình đã di tản trước“ rồi
2. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 là hạn chót cho người Mỹ di tản. Trong khi đó sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, hải quân VNCH vẫn còn trên sông Sài Gòn và bến Bạch Đằng, Dẫn chứng, qua cuộc điện đàm giữa Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang và Tổng Thống Dương Văn Minh, tướng Cang hỏi Tổng Thống DVM có rời Sài Gòn hay không để ông chờ đón tại bến Bạch Đằng. Tổng Thống DVM nói ông không thể bỏ Sài Gòn được, nhưng xin cho gia đình của con gái và người con rể là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài đi theo HQVN rời Sài Gòn. (Đại Tá Nguyễn Hồng Đài hiện ở Pasadena –Nam Cali). Tướng Cang nghe lời đầu hàng của Tổng Thống DVM trên hệ thống phát thanh, ông chỉ thốt ra được 3 chữ : THẰNG KHỐN NẠN.
Bác sĩ Trần Kim Tuyến có thừa sức di tản bằng các phương tiện khác, nhưng ông đến gặp ông Phạm Xuân Ẩn để “nhờ vả” chỉ để test lại bài toán. Đó là nếu ông Phạm Xuân Ẩn trở mặt và không chịu giúp bác sĩ Tuyến rời khỏi Sài Gòn thì “đao phủ thủ” (là viên Thiếu Tá – mà bác sĩ Tuyến giới thiệu là cháu) sẽ hạ sát “điệp viên nhị trùng” ngay lập tức, rồi sau đó 2 người sẽ xuống tàu rời Sài Gòn ngay. Tuy nhiên, ông Phạm Xuân Ẩn dù đứng khác chiến tuyến, nhưng thông cảm cho “người bạn” đang lâm vào thế kẹt nên ông tận tình giúp. Cũng nhờ vậy, tôi đoan chắc rằng chính lòng trắc ẩn có tình người của ông Phạm Xuân Ẩn đã giúp ông sống còn, nếu không ngày 29 tháng 4 lại là ngày giỗ hàng năm của ông rồi còn đâu
Tôi cũng đoan chắc là khi ông Ẩn lái xe đưa bác sĩ Tuyến đến địa chỉ số 39 đường Gia Long, “đao phủ thủ” vẫn lái xe gắn máy bám sát theo xe của ông Ẩn và chờ đến khi bác sĩ Tuyến lên được chiếc trực thăng, viên Thiếu Tá này mới trở về nhà của mình. Hiện nay chưa một ai xác nhận được lai lịch của vị Thiếu Tá đã chở bác sĩ Tuyến đến văn phòng của ông Ấn.
3. Trước ngày Tổng Thống Thiệu chịu trao quyền cho Tổng Thống Trần Văn Hương, bác sĩ Tuyến đã mưu toan lật đổ Tổng Thống Thiệu, vậy lý do nào ngày 29 tháng 4 năm 1975, bác sĩ Tuyến mới chịu rời Sài Gòn ?. Theo ý kiến của riêng tôi, bác sĩ Tuyến là vị chỉ huy có tinh thần trách nhiệm với thuộc cấp: ông đã dùng uy tín của ông để đưa các nhân viên và gia đình của họ rời khỏi Sài Gòn bằng nhiều phương cách khác nhau. Đồng thời ông cũng xóa các “dấu vết” trong mạng lưới tình báo của ông để Việt Cộng khi kiểm soát toàn thể Sài Gòn không thể mò tìm gây phiền toái và nguy hiểm cho những người vì nhiều lý do không thể rời khỏi Sài Gòn được.
Bên ngành Cảnh Sát Đặc Biệt cũng có trường hợp tương tự: Trung Tá Nguyễn Hữu Hải- nguyên Phụ tá Đặc Biệt của Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Quân Khu 2, khi di tản về tới Sài Gòn thì các tướng Huỳnh Thới Tây, tướng Nguyễn Văn Giàu… đã rời Việt Nam. Nhận thấy Văn Khố của Cảnh Sát Đặc Biệt vẫn còn nguyên,
Trung Tá Hải đã ra lệnh tiêu hủy và ông là sĩ quan cao cấp nhất của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt đã bàn giao cho Việt Cộng tại Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia trên đường Võ Tánh tại Sài Gòn (Ghi nhớ : Biện Lý Triệu Quốc Mạnh – kẻ nằm vùng của Việt Cộng – được Tổng Thống DVM bổ nhiệm làm Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành, nằm trên đường Trần Hưng Đạo chớ không phải được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Cảnh Sát nên Triệu Quốc Mạnh không biết gì về Văn Khố của Cảnh Sát Đặc Biệt).
Trung Tá Nguyễn Hữu Hải bị Việt Cộng trả thù bằng cách giam giữ ông tới 17 năm, ông ra tù sau tướng Lê Minh Đảo và đưa thẳng sang Hoa Kỳ vào năm 1993(tội của ông không được ghi trên văn bản nhưng Việt Cộng giam giữ lâu vì ông ra lệnh phá hủy các văn kiện tối mật mà chúng muốn biết).
4. Sau khi bốc Trung Tướng Trần Văn Đôn và bác sĩ Trần Kim Tuyến rời khỏi Sài Gòn, chắc chắn chiếc trực thăng chỉ đủ xăng bay ra Hạm Đội 7, đổi phi cơ trên Hàng Không Mẫu Hạm nhưng tôi không rõ phi cơ chở 2 vị bay sang Thái Lan hay bay vào căn cứ Clark trên đất Philippines, chỉ biết rằng Trung Tướng Trần Văn Đôn thì đến Pháp định cư, còn bác sĩ Tuyến thì đến Anh định cư. Có lẽ Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc trả tiền “về hưu” cho bác sĩ Tuyến nên ông dùng số tiền này mua một motel nhỏ để dưỡng già: bác sĩ Tuyến vừa làm manager, vừa làm bồi phòng, vừa làm janitor, vừa đun nước sôi pha trà… cho khách, giống như một cao thủ võ lâm “rửa tay gói kiếm” trong các tiểu thuyết kiếm hiệp của Trung Hoa.
5. Tôn Tử khi viết quyển BINH PHÁP cách nay hơn 2,500 năm, trong chương “Dụng Gián”, ông có phân loại nhiều loại gián điệp mà Tử Gián có nghĩa là Gián Điệp chỉ được dùng có 01 lần duy nhất. Tôi gọi bác sĩ Trần Kim Tuyến là Ông Trùm Hoàn Hảo (như tiêu đề bài viết này) vì sau khi giúp bác sĩ Tuyến rời khỏi Sài Gòn, điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn đã bị bọn lãnh đạo của Việt Cộng nghi ngờ lòng trung thành, chúng vinh thăng cho ông Ẩn từ Đại tá lên Thiếu Tướng Tình Báo nhưng cô lập và không cho tiếp xúc với bất kỳ ai khiến ông bất mãn. Theo như tiết lộ của bà Irina trong tập Bút Ký Irina xuất bản hồi 1992 tại Hoa Kỳ, trước khi Liên Sô sụp đổ, bà Irina sang Việt Nam phỏng vấn ông Ẩn (vì bà là Trưởng Ban Việt Ngữ của đài phát thanh Moscow), ông chua chát nói: “ông chỉ có làm tình và làm báo, chớ ông không có làm tình báo” !!
Bác sĩ Trần Kim Tuyến đã đẩy điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn trở thành Tử Gián nghĩa là vô hiệu hóa khả năng làm tình báo của ông Ấn sau năm 1975. Bác sĩ
Trần Kim Tuyến lìa đời trước ông Phạm Xuân Ẩn chừng non 10 năm, nhưng bác sĩ Tuyến ra đi với tấm lòng thanh thản. Trong khi đó, ông Phạm Xuân Ẩn lìa đời với tấm lòng buồn bực ấm ức, chả thế mà trong di chúc, ông dặn lại con cháu: “sau khi ông chết, xin đừng chôn chung với những người Cộng Sản…”
Đọc Tam Quốc Chí, đoạn nói về Khổng Minh bị Tư Mã Ý bao vây mà trong thành chỉ còn vài trăm quân lính, Khổng Minh liền cho mở cửa thành, ngồi ở cuối đường ngó thẳng vào thành, cầm quạt phe phẩy, vậy mà Tư Mã Ý không dám tiến quân, rồi sau đó cho lui binh. Mao Tôn Cương bàn rằng : …
Kế của Khổng Minh thành công vì Khổng Minh biết Tư Mã Ý là người suy tính cẩn thận. Mưu kế ấy sẽ trở nên thất bại nếu người vây thành là Trương Phi hay Hứa Chữ thì không xong vì 2 ông tướng nóng nẩy này cho dù biết có cả vạn binh phục kích đi nữa cũng không care.
Tương tự như vậy, chính vì quá hiểu biết tâm tư + tính tình của bọn lãnh tụ Việt Cộng nên bác sĩ Tuyến mới triệt hạ được khả năng làm “điệp viên hai mang” của ông Phạm Xuân Ẩn.
Xin gửi cả sự TÂM PHỤC lẫn KHẨU PHỤC đến bác sĩ Trần Kim Tuyến về tài năng và trí tuệ tuyệt vời của ông.
Trần Trung Chính
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.
Links:
Nguồn Email.
Những Dòng Kỷ Niệm – Trần Đoàn
Đăng trong: Tháng Tám 24, 2019 Filed under: Anh Hùng, Bài Đọc Hay, Hồi Ký, Lịch Sử, Nhân Vật, Sử Liệu | Tags: Anh Hùng, Hồi Ký, Lịch Sử, QLVNCH, Quân Y VNCH Bạn nghĩ gì về bài viết này?Bài đọc suy gẫm: Những Dòng Kỷ Niệm hay Những vị Bác sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ, tác giả Bác sĩ Trần Đoàn, cựu sĩ quan Quân Y thuộc binh chủng Nhảy Dù VNCH. Hiện ở tiểu bang Vigirnia, tu đạo Phật thành cư sĩ, rất có công trùng tu chùa Hoa Nghiêm tại địa phương.
Những Vị Bác Sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ
Trần Đoàn/Diễn Đàn Cựu SVQY
—oo0oo—
50 năm, một nửa thế kỷ của cuộc đời đã trôi qua từ khi tôi về đảm nhận chức vụ Y sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù (TĐ2ND). Trí nhớ cũng phôi pha theo thời gian. Thế nhưng một chặng đường gần 6 năm đội chiếc Mũ đỏ vẫn là một dấu ấn khó quên, vì đó là một giai đoạn của tuổi thanh niên đầy nhựa sống, tích cực hăng hái đóng góp bàn tay bảo vệ Tự do cho Quê hương, vừa gian lao vừa hãnh diện.
Chiến tranh Quốc Gia – Cộng Sản từ năm 1965 bắt đầu sôi động dữ dội. Rối loạn chính trị miền Nam tạo cơ hội thuận tiện cho quân chính qui Bắc Việt dễ dàng xâm nhập khắp thôn ấp và các vùng ven đô thị.
Sau 7 năm dùi mài kinh sử, chúng tôi là sinh viên quân y hay dân y trưng tập đều được phân phối về các đơn vị chiến đấu hay các bệnh viện dã chiến để băng bó các vết thương của bom đạn.
Làm sao tránh khỏi lo âu và xúc động khi chỉ nội trong năm 1964 – 65 mà đã có 7 y sĩ hy sinh tại chiến trường.
BS. Đoàn Mạnh Hoạch ngã gục trước lằn đạn địch ở Quảng Ngãi 1964.
BS. Trương Bá Hân, Thuỷ quân Lục chiến, tử trận ở Bình Giả 1964.
Các đàn anh chỉ hơn tôi có một lớp, mới ngày nào cùng nhau thực tập trong Bệnh viện Chợ Rẫy, Bình Dân, v.v., có anh là nội trú xuất sắc, xứng đáng là bậc thầy trong Y nghiệp, hứa hẹn một tương lai sán lạn, thế mà cũng bị hy sinh tại trận địa mấy tháng sau khi đáo nhậm đơn vị.
Sinh viên Quân y vào năm cuối được liên tục luân phiên gác xác các đàn anh tử trận trong năm 1965.
BS. Phạm Bá Lương ngã gục ở Bầu Bàng.
BS. Nguyễn Văn Nhứt tử thương khi đoàn xe di chuyển bị phục kích ở rừng cao su Dầu Tiếng.
BS. Trần Thái hy sinh tại Bà Rịa.
BS. Trần Ngọc Minh, Y sĩ Trưởng TĐ5/TQLC bị đâm vào ngực trong một trận xáp lá cà với Việt cộng tại Thăng Bình.
BS. Đỗ Vinh, Y sĩ Trưởng TĐ5/ND bị mảnh pháo trúng ngay vào đầu khi đang săn sóc thương binh. Ngày đưa tang, Thiếu tá TĐT/ TĐ5ND Ngô Quang Trưởng và quân nhân các cấp, các đơn vị bạn ngậm ngùi thương tiếc tiễn anh ra mộ huyệt. Tôi vẫy tay chào anh, từ bỏ anh em quá sớm.
Chiếc áo Hoa rừng và Mũ đỏ của Binh chủng hào hùng thiện chiến vẫn có một mãnh lực hấp dẫn máu giang hồ, điếc không sợ súng của chúng tôi, ba thằng bạn xuất thân từ xứ Huế, học cùng lớp, ăn cùng mâm, ở cùng phòng trong trường Quân y ở Chợ Lớn:
-Lê Văn Châu, con của Tướng Lê Văn Nghiêm, tức là nhà văn Trang Châu, còn có biệt danh là “Châu cá ngựa” vì anh có mặt tại trường đua Phú Thọ hằng tuần;
-Đoàn Văn Bá, tục gọi là “Bá điên” còn được gọi là “ I‘homme des situations difficiles” vì anh bạo ăn bạo nói, chỗ nào gặp khó khăn với cấp trên là có anh. Anh bị kẹt lại ở Huế trong chuyến nghỉ phép về thăm nhà, tại trận Mậu Thân, được quân đội Mỹ giải cứu trong gang tấc, đưa anh về căn cứ MAC- V, giúp giải phẫu cứu mạng rất nhiều Quân nhân Mỹ bị trọng thương và được tuyên dương tưởng thưởng Huy chương Bronze Star Hoa Kỳ.
-Còn tôi, Trần Đoàn, được các bạn gán cho biệt danh “Đoàn cái bướm” vì tôi viết bài “Thằng cu hay Cái bướm” đăng nhiều kỳ trong Đặc san Tình Thương của Sinh viên Y Khoa thời ấy.
Bảng hiệu “BỆNH XÁ ĐỖ VINH” nền trắng chữ đỏ mới toanh, còn ướt màu sơn treo trên khu nhà bằng gạch hai tầng của Bệnh xá Nhảy dù 50 giường không làm chúng tôi sợ sệt mà còn cảm thấy một cái gì vinh quang khi trình diện thụ huấn Khóa 68 Nhảy dù vào tháng 8 năm 1965 .
Ba thằng bạn thân, không ai dám rủ ai vào nơi nguy hiểm, đều có mặt. Cổng trại Hoàng Hoa Thám thẳng tắp con đường tráng nhựa rợp bóng mát của hai hàng cây đưa đến các dãy doanh trại xây bằng gạch vững chắc sơn màu vàng, ngay ngắn sạch sẽ, là con đường quen thuộc, thân thương của chúng tôi từ dạo ấy.
Bóng dáng các đàn anh đeo bằng “Nhảy dù điều khiển” như BS. Văn Văn Của, BS. Trần Tấn Phát…, kích thích lòng tự ái liều lĩnh của chúng tôi trong niềm cảm phục kính nể. Chiếc mũ đỏ được đội lên đầu sau 3 tuần huấn luyện ướt đẫm mồ hôi, bò lết, hít đất, nhảy chuồng cu, và 6 “sauts” nhảy dù ở Hốc Môn – Củ Chi.
Cánh hoa dù T10 xoẹt mở rộng lộng gió tung bay mát rượi trong bầu trời trong xanh ôm trọn một phần của vũ trụ bao la là những giây phút thần tiên ngắn ngủi của người lính Mũ Đỏ. Sau đó thì nguy hiểm bắt đầu rình rập. Saut đêm bị hủy bỏ vào phút chót vì tình hình an ninh bãi nhảy không cho phép, có người lính nhảy xuống bị mất tích không tìm ra dấu vết.
“NHẢY DÙ – CỐ GẮNG” là một khẩu hiệu có mãnh lực xô chúng tôi phóng ra cửa máy bay sau tiếng hét “Go” của Huấn luyện viên, và là châm ngôn giúp chúng tôi vượt qua chặng đường hành quân vất vả, cực nhọc. “Nhảy Dù – Cố Gắng” gắn bó theo giúp chúng tôi suốt cả cuộc đời, nào là khi bị hành hạ xài xể trong trại tù Cộng sản, nào là khi gặp sóng gió, bão tố, ói mửa trong chiếc ghe nhỏ trên đường vượt biển tìm tự do, khi lao động chân tay để có tiền mua sách học lấy lại mảnh bằng hành nghề, khi đau ốm bệnh hoạn và cả khi tu tập chuyển hóa tâm linh.
BS. Lê Trọng Tín biệt phái về làm Y sĩ Trưởng TĐ1ND – Lê Văn Châu TĐ6ND – Đoàn Văn Bá về TĐ7ND – Trần Trọng Nghị về TĐ9ND và tôi về TĐ2ND.
TĐ2ND là 1 tiểu đoàn tân lập đóng ở Bà Quẹo, sát nách phi trường Tân Sơn Nhứt, không xa cổng trại Hoàng Hoa Thám. Thế là tôi may mắn được ở ngay Saigon, sớm tối được về chăm sóc vợ đang mang bầu. Vợ tôi còn là sinh viên trường Dược. Lương Y sĩ Nhảy dù phải gói gém lắm mới đủ sống.
Lần xuất quân thử thách đầu tiên của tôi vào cuối năm 1965 lại là với chức vụ Y sĩ Trưởng TĐ3ND thay thế BS. Nguyễn Đức Liên đi phép về hậu cứ. Trời Saigon 4 giờ sáng còn mờ sương, chiếc C123 rù máy xé tan bầu không khí tĩnh lặng, lạnh lùng cất cánh rồi đáp xuống phi trường Qui Nhơn sau hơn một giờ bay. Phi cơ há miệng đằng đuôi nhả ra hơn trăm binh sĩ súng đạn đầy mình (bỏ: sẵn sàng) ra bổ sung cho chiến trường Tam Quan, Bồng Sơn.
Phi đội trực thăng tiếp tới gắp chúng tôi đưa thẳng vào chiến địa còn hôi tanh mùi máu và thuốc súng, bay sà sát rừng dừa xơ xác ngả nghiêng cháy xám. Y sĩ Trưởng, Thiếu Tá Hoàng Cơ Lân, dẫn tôi vào chào Tướng Tư Lệnh Dư Quốc Đống trong một căn lều. Ông đang ở trần, mặc quần xà lỏn, đen đui đủi, vây quanh bởi các sĩ quan của Bộ chỉ huy, mồ hôi nhễ nhại. BS. Liên đưa tôi về trạm cứu thương TĐ3ND tạm trú dưới một mái nhà tôn đầy dấu đạn.
Các y tá còn bận rộn thu dọn y cụ vì công việc tản thương vừa mới được hoàn tất tối hôm qua. Thiếu tá Hưng, Tiểu đoàn trưởng, nước da rạm nắng có vẻ âu lo. Đại úy TĐP Trần Quốc Lịch người cao to, đầu trọc lóc trông rất “ngầu”, sau này ông lên đến cấp tướng chỉ huy sư đoàn. Hằng ngày tôi làm dân sự vụ, khám bệnh, phát thuốc, chăm sóc ngay cả các bà đang có bầu mà tác giả không ai khác là những du kích địa phương. Lòng nhân đạo của người y sĩ không phân biệt bạn hay thù. Tôi thương người dân, tôi thương những trẻ em lớn lên ở vùng đất mất an ninh này, không biết đâu mà lựa chọn. Tôi thông cảm nỗi khổ của họ khi sinh sống trong vùng xôi đậu.
Đồi 10, một ngọn đồi nổi tiếng khó tiến chiếm vì Cộng quân đào hầm địa đạo từ chân đồi lên đến đỉnh đồi và đặt thượng liên nhắm bắn vào trực thăng bao vùng xạ kích yểm trợ – Một ngọn đồi đẫm máu được ghi vào Chiến sử.
Chuẩn uý Lê Hồng, xuất thân từ hạ sĩ quan, là sĩ quan Ban 3 Tiểu đoàn sau khi thụ huấn xong khóa sĩ quan đặc biệt về. Người anh nhỏ con nhưng giọng nói Quảng Trị rõ ràng chắc nịch qua máy truyền tin vang to suốt cả ngày đêm để điều động các đại đội đang lục soát quanh vùng. Là người lính chăm chỉ, gan dạ và khuôn phép, anh leo dần lên đến chức vụ TĐT/TĐ1ND, rồi Trung tá Lữ đoàn phó khi tàn cuộc chiến.
Sau này, khi qua định cư tại Mỹ, tôi cảm phục sự nhẫn nhục của anh khi thấy anh bất chấp nặng nhọc lao động khuân vác trong một tiệm tạp hóa vùng Arlington, VA, để sinh sống và nuôi ý chí cương quyết về giải phóng Quê hương thoát khỏi gông cùm Cộng sản. Ước nguyện không thành, anh bỏ xác tại vùng biên giới Việt Lào trong niềm thương tiếc khôn cùng của đồng đội.
Trạm Y tế TĐ2ND nằm trong một gian nhà tiền chế của doanh trại, mái tồn nền đất. Y tá trưởng, Thượng sĩ “Hưng mù”, đeo kính cận dầy cộm, có nhiều kinh nghiệm từ hồi còn là y tá trong quân đội Pháp, tháo vát và khéo xã giao, giúp tôi và đội y tá trên dưới 20 người dọn dẹp phòng ốc, sắp đặt dụng cụ thuốc men. Vài ba anh lính trẻ khai bệnh lậu đái ra mủ vì không được hướng dẫn dùng bao cao su khi giao hợp với “chị em ta” phân trần: “Đời lính xa nhà mà Bác Sĩ!”. Tôi làm quen dần với các sĩ quan bộ Chỉ huy và các đại đội.
Chuẩn úy Võ Văn Thu, nguyên là y tá TĐ5ND, vừa thụ huấn khóa Sĩ quan Thủ Đức trở về nắm giữ chức vụ Sĩ quan Hậu cứ, thường lui tới thăm hỏi và giúp đỡ trạm Y tế. Anh được ông TĐT, cũng xuất thân từ TĐ5ND, tin cậy thương mến và nâng đỡ vì tinh thần phục vụ đắc lực của anh. Chức vụ cuối cùng của anh là TĐT/TĐ Yểm trợ/SĐND với cấp bậc Trung tá.
Nghe nói ngày di tản qua Mỹ, sống ở Washington State, nơi xứ lạ quê người, tinh thần anh bị suy sụp. Anh cạo gió cho con anh khi nó bị ho cảm. Mấy lằn vết đỏ sau lưng và trước ngực làm cho cô giáo nghi anh đánh đập ngược đãi trẻ con. Anh phản kháng khi cảnh sát đến còng tay anh. Vì quá uất ức, anh treo cổ tự tử trong tù.
Đại úy Lê Quang Lưỡng, vừa mới được thăng chức Thiếu tá mấy tháng trước, nắm chức vụ TĐT/TĐ2ND. Ông là người chiến binh mang nhiều thương tích và chiến tích, vào sinh ra tử biết bao nhiêu lần với những chiến công oanh liệt vẻ vang tại mặt trận An Lộc, Huế trong dịp Tết Mậu Thân, và Hạ Lào v.v…. Ông đã được thăng cấp Chuẩn tướng và được bổ nhiệm làm Tư Lệnh/SĐND vào năm 1973 (?) bởi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ngày đoàn quân xa trên 30 chiếc chở Tiểu đoàn tân lập về Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp, Bà Rịa, để thụ huấn, chưa kịp ra tới đầu xa lộ Biên Hòa thì xui xẻo gặp lúc Cộng sản pháo kích vào thành phố Saigon. Vài ba quả nổ tung toé ngay trên đường Phan Thanh Giản giữa lúc dân chúng tấp nập đi làm buổi sáng. Cảnh tượng lúc ấy thật hỗn độn vì mọi người hoảng hốt chạy tìm chỗ ẩn núp sau mấy gốc cây. Đoàn xe bị khựng lại, mãi hơn giờ sau mới tiếp tục lộ trình về đến nơi đến chốn an toàn.
Sau 3 tháng huấn luyện, Tiểu đoàn được chuyển về đóng quân ở vòng đai Saigon, vùng Tân Quí, Hóc Môn, Bà Điểm.
Tiểu Đoàn phó, Đại úy Trần Kim Thạch, nhỏ con, bị thương ở háng nên khó khăn khi ngồi vệ sinh. Ông xuất thân từ hạ sĩ quan của Nhảy dù Pháp, vui tính, lanh lẹ và can đảm. Một buổi chiều, trời chạng vạng tối, tôi thấy ông vừa cười vang vừa hối hả chạy bộ thình thịch về Bộ Chỉ huy với hai người lính cận vệ, trên vai mỗi người đều mang thêm một khẩu AK. Tiểu đoàn phó mà chịu chơi nằm lại phục kích bên bờ lau sậy sau khi cả Tiểu đoàn tảo thanh lùng địch đã rút trở về.
Hai năm sau ông nắm chức vụ TĐT/TĐ2ND ghi thêm nhiều chiến công oanh liệt cho Tiểu đoàn. TĐ2ND đã đủ lớn mạnh để chuyển vận ra vùng địa đầu giới tuyến.
Ngày quân xa chở Tiểu đoàn từ Huế ra Quảng Trị, một đoạn đường dài hơn cả cây số khi gần đến làng Mỹ Chánh, bị cày nát và còn nóng hổi vết tích bom đạn đầy mảnh vụn của xe bị cháy đen hòa với máu đỏ. Ruộng lúa hai bên xơ xác tơi bời ngả nghiêng, dấu vết của TĐ2TQLC bị phục kích mới ngày hôm qua. Thiếu tá TĐT/TĐ2 Trâu Điên Lê Hằng Minh hy sinh ngay từ phút đầu. Đoàn quân xa dè dặt, thận trọng chậm rãi di chuyển trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Không khí ngột ngạt. Đến thành phố Quảng Trị, tôi bị choáng váng, ngộp thở vì ngọn gió Lào độc địa thổi về. Hôm sau, trực thăng vận thả Tiểu đoàn xuống các ngọn đồi trống vùng Cùa, những ngọn đồi mọc đầy những bụi hoa sim tím. Những cánh hoa còn ướt sương mai lóng lánh trong nắng sớm. Tôi ngắt hoa ép vào quyển nhật ký hành quân và thầm đọc bài thơ “Những đồi hoa sim tím” của Thi sĩ Hữu Loan, mong rằng ngày tôi về vẫn còn gặp nàng…
Toán Tiền sát báo cáo bắt được một cán binh Việt cộng đang ngơ ngác cầm bản đồ và ống nhòm quan sát trận địa. Khai thác cho biết Tiểu đoàn Cộng sản đang trên đường xâm nhập. Chiều về, Tiểu đoàn di chuyển ra khỏi làng và đóng quân trên dãy đồi cao thấp nối tiếp thoai thoải. Chập tối, Ban 3 Tiểu đoàn báo cáo mất liên lạc với Tiểu đội nằm lại phục kích trong làng. Tôi duỗi chân nằm thẳng trên cỏ, đếm sao nhấp nhánh trên trời và thiếp đi, rã rời chân tay. Thình lình nửa khuya, địch nổ súng ồ ạt la hét “hàng sống, chống chết” bò lên tấn công. Giao tranh cận chiến ác liệt. May thay cây thượng liên của chúng đặt trên đồi cao hướng về Bộ Chỉ huy và Toán quân y kế cận chưa kịp khai hỏa thì bị binh sĩ Nhảy dù tiêu diệt. Phi cơ phản lực liên tiếp thả bom Napalm vào khu rừng dưới đồi. Xác địch banh thây cách chổ tôi nằm không quá 50 thước. Băng bó, tản thương không ngừng tay.
Ngay tối hôm đó, đài Cộng sản oang oang nêu thành tích là đã giết được 15 lính ngụy Dù, một con số chính xác mà Ban 3 Tiểu đoàn vừa mới báo cáo thiệt hại về Sư Đoàn buổi sáng sớm. Phải chăng có nội tuyến nằm ngay trong trong BTL/SĐND?, tôi đắn đo suy nghĩ.
Về trạm dưỡng quân ở Đông Hà, tôi gặp BS Vũ khắc Niệm, Y Sĩ trưởng TĐ8ND. Hai anh em rủ nhau đi uống bia cho đỡ thèm khát dưới cái nắng nóng gay gắt của miền Trung. Một chai bia cao hiệu con cọp ướp lạnh giá 50 đồng. Tôi lục lọi mãi hết trong các túi bộ đồ trận lôi ra đếm được 49 đồng. BS Niệm cho tôi thêm 1 đồng.
Tiếng nổ của cây súng AK nghe có phần chát chúa và khiếp đảm hơn cây súng Carbine M1, M2, cổ lổ sĩ hay bị kẹt đạn. Trung Cộng và Liên Sô âm thầm trang bị cho Bắc Việt vũ khí ngày càng tối tân hơn. Đến cuối năm 1966, khi đóng quân ở làng An Hòa ngoài thành phố Huế, TĐ2ND mới được Ngũ Giác Đài phê chuẩn viện trợ súng AR-15, AR-16 thay thế.
Hạnh phúc của người lính trận lội bộ dài ngày khi được về dưỡng quân vùng khá an ninh rất đơn giản là tháo được đôi giày trận và đôi vớ hâm hẩm hôi thối, chùi được các ngón chân mốc meo, rửa được bộ sinh dục bầy nhầy và lắm khi là móc được cục phân cứng như đá ra khỏi hậu môn vì ăn thiếu rau, uống thiếu nước, không có thì giờ đi đại tiện.
Lính Nhảy dù bị bệnh trĩ nhiều là vì nguyên do như thế. Bộ đồ trận tanh tanh mồ hôi và dơ bẩn giặt phơi chưa kịp ráo thì có lệnh di chuyển. Một tuần phát lương khô gạo sấy chất vào balô. Tình báo cho biết địch vượt sông Bến Hải xâm nhập vào phía nam vùng phi quân sự. Tiểu đoàn lại được trực thăng vận đổ quân xuống sát hàng rào Mc Namara. Xa xa về phía tây, bụi khói bay ngút trời do B 52 rải bom ầm ầm nghe ghê rợn.
Cả tiểu đoàn di chuyển đội hình hàng một xuyên rừng rậm đầy gai góc theo bước chân của khinh binh đi trước phát quang. Chim chóc và côn trùng vắng tiếng hót. Cái im lặng khá rùng rợn khi dừng chân ngủ đêm. Thằng Y tá tên Dân thân cận của tôi sửa soạn đào hầm cá nhân cho “ông thầy”. Một nhát xẻng nhấn xuống là một ánh lửa loé lên vì chạm vào đất đầy sỏi đá. Tôi không đành thấy nó hì hục cực nhọc nên ngăn nó dừng tay, chấp nhận số mạng rủi ro.
Chiếc võng treo thấp đu đưa ru tôi vào giấc ngủ đầy mộng mị chết chóc. Vào khoảng 2 giờ sáng, địch pháo kích hàng loạt súng cối, tung tóe sấm sét vào vùng đóng quân. Một quả 60 ly chớp nổ cách chiếc võng khoảng 10 thước, hất tôi lăn ngã xuống đất. Tôi cảm thấy đau rát nơi hai mông, đưa tay sờ vào thì đỏ ướt máu. Tôi đã bị thương nhưng biết mình còn sống. Giọng ông TĐT vang lớn giữa những tiếng pháo kích còn nổ vang:
– Bác Sĩ, Bác Sĩ, tôi bị thương.
Tôi do dự định chạy đến nhưng thằng Y tá cận vệ thấy nguy hiểm níu tôi lại và trả lời lớn :
– Thưa Thiếu tá, BS cũng bị thương.
Đại đội Trưởng Thạch Văn Thịnh xui xẻo bị một quả rơi đúng chỗ ông nằm. Doanh trại từ đó mang tên của người Đại đội Trưởng đầu tiên của TĐ2ND bị tử trận. Trung đội trưởng Trần Công Hạnh dẫn Trung đội ngang Bộ chỉ huy và tiến về phía địch, nơi đặt pháo. Chiến đoàn Trưởng Đào Trọng Hùng la hét điều quân. Ông nổi tiếng là người chỉ huy can đảm không bao giờ khom lưng tránh né đạn khi lâm trận mà đạn biết tránh né ông.
Chiếc khăn đỏ quấn quanh cổ được xem như là bùa hộ mạng. Một bên lưng đeo khẩu súng lục chỉ huy, một bên kia đeo một bi đông rượu đế, đường đường một đấng. Bác Sĩ Hà tục gọi là “Hà chảy”, người ông dong dỏng cao, Y sĩ trưởng TĐ8ND, vừa đi vừa ôm bàn tay bị thương vừa chửi thề: “Địt mẹ, tao có muốn về Nhảy dù đâu mà bị thương như thế này”. BS. “Hà chảy” là dân y trưng tập, học cùng lớp với tôi, chưa kịp bổ đi đơn vị nào khi ra trường thì lại miễn cưỡng bị trưng dụng tạm thời vì Nhảy dù thiếu y sĩ. Y tá xuôi ngược chăm sóc thương binh, trực thăng liên tiếp đáp xuống tản thương.
Mỗi lần hành quân 2-3 tháng về hậu cứ là quân số Tiểu đoàn hao hụt hơn phân nửa. Tiểu đoàn Vương Mộng Hồng – Khối Bổ Sung phân phối về Tiểu đoàn nhiều tân binh chưa kịp hoàn tất xong khóa Nhảy dù.
Vùng I, vùng giới tuyến sùng sục dầu sôi lửa bỏng. Hành quân bấy giờ không còn là cấp tiểu đoàn lẻ tẻ mà là chiến đoàn gồm 2-3 tiểu đoàn che chở yểm trợ cho nhau. Hành quân với thiết vận xa của Việt Nam Cộng Hòa hay với chiến xa lội nước của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ tăng cường thường dễ dàng hơn khi tiến chiếm mục tiêu và ít bị thiệt hại.
Cuộc hành quân “Nhảy dù trận” của TĐ2ND xuống đồng bằng sông Cửu Long vào giữa năm 1966 có lẽ là Saut nhảy xuống trận địa cuối cùng của binh chủng Nhảy dù vì sau đó trực thăng là phương tiện đổ quân nhanh chóng và ít nguy hiểm. Cả một rừng chiếc “Nấm” úp xuống khoảng ruộng nước bao la. Tôi xếp dù an toàn gom vào một chỗ với Đại đội 20 rồi tiếp tục bì bõm tiến theo đoàn quân. Vì bất ngờ nên địch quân không kịp bắn lên trong lúc chúng tôi còn lơ lửng trên trời trong buổi sáng sớm như trong phim “The longest day” khi quân đồng minh nhảy dù xuống Normandie. Chạm súng lẻ tẻ với du kích, địch tránh né rút vào rừng tràm. Vũng nước nào cũng có tôm có cá giúp cho chúng tôi có thêm thực phẩm tươi bồi dưỡng.
Tổ chức SĐ Nhảy dù từ năm 1966 đã nâng cấp số từ Liên đoàn thành Sư đoàn. Đại đội Quân y Nhảy dù thành Tiểu đoàn Quân y Nhảy dù. Bệnh xá Đỗ Vinh 50 giường thành Bệnh viện Đỗ Vinh 100 giường. Pháo binh, Truyền tin… nâng quân số từ Đại đội lên Tiểu đoàn. Chiến đoàn đổi thành Lữ Đoàn gồm ít ra là 3 tiểu đoàn khi hành quân cho kịp với đà leo thang chiến tranh ngày càng khốc liệt.
Lữ đoàn 3 ND của Trung tá Nguyễn Khoa Nam đóng gần Bộ chỉ huy TĐ 2 ND ở vùng Tân Quí. Các Đại đội phân chia đóng ở các thôn ấp chung quanh. Tình báo cho hay Tiểu đoàn đặc công Cộng sản mò về sát vòng đai Saigon, thuộc xã Vĩnh Hạnh, Vĩnh Lộc. Lịnh hành quân lục soát ban ra. Trung đội tiền phong do Trung đội Trưởng Trần Công Thọ vừa ra trường khóa 20 Võ Bị Đà Lạt chạm súng. Cả Tiểu đoàn tiến lên tốc chiến tốc thắng đẩy địch bỏ chạy rút vào vùng kinh lạch Đức hòa, Đức Huệ để lại gần 100 xác và súng ống đủ loại.
Thiếu úy Trần Công Thọ bị ngay một viên đạn giữa đỉnh trán, chết ngọt lịm không kịp trăn trối, nằm cách chỗ tôi không quá 20 thước. Tôi đưa tay vuốt mắt anh, không thấy chảy máu, mặt anh còn tươi tắn như thiên thần ngủ quên. Nhạc phẩm “Tạ từ trong đêm” của Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết lên để riêng tặng anh. BS. Bùi Thế Cầu, nguyên Thiếu tá Y sĩ trưởng TĐ5ND, đang nắm giữ chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Gia Định cùng giới chức Hành chánh dân sự cao cấp và báo chí tháp tùng trực thăng xuống ngay trận địa để chứng kiến tận mắt và tán dương. Danh tiếng TĐ2ND nổi như cồn trên trang đầu các tờ báo Saigon. Đại đội 23 tập hợp nhiều Trung đội trưởng họ “TRẦN “trẻ trung, gan dạ, thương mến nhau như anh em ruột thịt. Một Trần Công Thọ đã rơi rụng.
Một Trần Duy Phước cũng rụng rơi năm sau đó, còn lại Trần Công Hạnh leo dần đến chức vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ2ND. Đại đội trưởng Trần Công Danh rời Tiểu đoàn chuyển hoán về đơn vị khác – Đại đội trưởng Phạm Kim Bằng bị thương hư một mắt – Đại đội trưởng Trần Như Tăng bị thương gãy chân – Đại đội trưởng Nguyễn Văn Được giã từ vũ khí ở vòng đai Saigon. Ngày tiễn anh ra mộ huyệt có 3 bà mặc áo quần đen dài chít khăn tang trắng sụt sùi sau quan tài – Đại đội trưởng Lê Văn Mạnh Đại đội 20 lên cầm quyền chỉ huy TĐ2ND một thời gian.
Toán Y tá của tôi gần 2 năm trời không ai bị hy sinh trừ một vài bị thương nhẹ. Tôi khâm phục tinh thần gan dạ của Y tá Nhảy dù, luôn luôn xông vào tuyến đầu ngay dưới lằn đạn địch để băng bó vết thương cho đồng đội. Y tá trưởng Thượng sĩ Hưng “Mù” được Y tá trưởng Trung sĩ nhất Be về thay thế. Anh Y tá trưởng mới này cũng thuộc loại “chì” không kém.
Hành quân vùng Củ Chi – Hậu Nghĩa thường bị mìn bẫy nguy hiểm. Một một chiếc Chinook chở gần cả Đại đội bay sà sà sát mặt đất để tránh khỏi bị bắn tỉa khi đổ quân. Thế mà xui thay, viên Đại úy Cố vấn Mỹ mới về Tiểu đoàn, ngồi cạnh ông Tiểu đoàn trưởng, là người duy nhất bị trúng một viên đạn bắn lên xuyên qua, chết ngay tại chỗ.
Vùng I Chiến thuật lại khẩn điện về Bộ Tổng Tham Mưu cầu viện các Binh chủng tổng trừ bị như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến. Dân chúng vùng Huế, Quảng Trị, Đông Hà an tâm khi có sự hiện diện của các binh chủng này. Tổng trừ bị gì mà ăn dầm ở dề tháng này qua tháng nọ giống như là Địa Phương Quân.
TĐ2ND trở lại Huế, hành quân lần này có Trung đội Thiết giáp M 113 yểm trợ. Những “Con cua khổng lồ ” dàn hàng ngang dậm chân trước một địa thế nghi ngờ. Trung đội khinh binh tiến sát vào hàng rào tre cao vút dày đặc của làng Đông Xuyên – Mỹ Xá, quận Quảng Điền. Im lặng đến ngộp thở. Chưa thấy động tĩnh thế nào cả. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn dè dặt từng bước. Đợi đến khi thấy các cần câu của máy truyền tin PRC 25 của Bộ Chỉ huy gần kề thì địch khai hỏa. Thiết giáp đã dàn hàng ngang rồi ầm ầm nhào tới khạc đạn đại liên xối xả vào mục tiêu.
Lính Nhảy dù xung phong như sóng vỡ bờ. Lựu đạn thi nhau ném vào các hầm hố mới thanh toán được các ổ thượng liên mà xạ thủ bị còng chân tử thủ với nhau. Lựa đến khi trời tối địch nương theo kinh rạch để mà chém vè, rút sâu vào làng. Nhiều xác địch và vết máu để lại trên đường tháo chạy. Nhiều binh sĩ mang máy theo Bộ chỉ huy bị thiệt hại tính mạng. Ông Tiểu đoàn trưởng vẫn bình tĩnh điều quân. Thiết giáp không bị hư hại chiếc nào cả. Trực thăng rọi đèn tải thương trong đêm tối. Mồ mả quanh bờ làng là nơi che chở cho chúng tôi gối đầu qua đêm.
BS. Trần Lâm Cao tháp tùng các Sĩ quan Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 theo trực thăng tản thương từ Quân Y viện Nguyễn Tri Phương đáp xuống trận địa khi chiến trường đã thu dọn xong buổi sáng. Một chiến thắng quân địch sát nách thành phố Huế làm chấn động người dân thị thành. Chiến thắng nào mà không đổi lại bằng xương máu.
Viết đến đây lòng tôi bổng chùng vì xúc động. Những khuôn mặt người lính thân thương đó hiện rõ trong ký ức của tôi. Họ nằm xuống vì vết đạn vào đầu, vào tim, vào phổi nằm la liệt trước mặt tôi. Người Y sĩ Tiểu đoàn hoàn toàn bất lực trước những vết thương không có phương tiện cứu chữa. Tôi xin cầu nguyện cho các anh an giấc ngàn thu và không hận thù. Chúng ta đều chia sẻ một đau thương chung của vận nước nổi trôi.
Tôi bàn giao toán Y tá cho BS. Trần Lâm Cao làm tân Y sĩ trưởng TĐ2ND vì đáo hạn nhiệm kỳ 2 năm phục vụ Tiểu đoàn.
Tôi được thăng cấp Đại úy và nhận nhiệm vụ mới là Y sĩ trưởng Đại đội 3/QYND, thường đóng chung với Bộ chỉ huy Lữ đoàn 3 ND của Trung tá Nguyễn Khoa Nam khi đi hành quân. Sau này ông là Tướng Tư lệnh vùng 4 và tuẫn tiết không chịu đầu hàng địch. Danh thơm của ông ấy còn vang mãi trong hậu thế.
Tin dữ từ mặt trận đưa về: BS. Nghiêm sĩ Tuấn học cùng lớp, là BS dân y trưng tập, tình nguyện về TĐ6ND, cũng chỉ còn một tháng nữa là mãn nhiệm kỳ phục vụ cấp Tiểu đoàn bị tử trận tại Khe Sanh khi đang săn sóc thương binh. Anh đã 2 lần bị thương, một ở Dakto, một ở Cao Lãnh. BS. Lê Hữu Sanh, bạn cùng khóa, người thường được chọn cầm cờ đi hàng đầu trong các cuộc diễn hành của trường Quân y vì dáng anh cao lớn, tử trận khi anh đang làm Y sĩ trưởng một Tiểu đoàn TQLC.
Cuối năm 1970, tôi giữ chức vụ Y sĩ trưởng Bệnh viện Đỗ Vinh / SĐND và được thăng cấp Thiếu tá.
Khoảng tháng 3/1971, tôi đang thụ huấn tại Bệnh viện Brooks Hospital, thành phố San Antonio, Texas thì nhận được tin nhiều Y tá / TĐ2ND hy sinh tại mặt trận Hạ Lào. Lòng tôi quặn thắt.
Tôi rời Binh chủng Nhảy dù về phục vụ tại Quân Y viện Nha Trang để được gần gia đình. Chiếc Mũ đỏ và bộ hoa dù vẫn còn quyến luyến cho đến khi tôi giải ngũ vì đắc cử Nghị viên Thành phố Nha Trang năm 1974.
Viết những dòng kỷ niệm của nửa thế kỷ trước không sao tránh khỏi thiếu sót và nhầm lẫn, rất mong các bạn đọc đính chính và thông cảm.
Tôi xin nghiêng mình tưởng niệm những Quân nhân Binh chủng Nhảy dù đã nằm xuống, những người lính chỉ biết tiến không lùi dù trước hỏa lực mạnh của địch quân.
Tôi xin cảm phục và tưởng niệm người lính Chiến sĩ Vô danh của Nhảy dù bắn súng vào họng tự sát khi miệng còn nhai cơm sáng 30 tháng 4 tại hẻm tôi ở 147/8 Trần Quốc Toản, một hình ảnh hào hùng không thể quên.
Tiếp nối làm Y sĩ trưởng TĐ2 ND là BS. Vương Bình Dzương, BS. Bùi Văn Đạt, BS. Tôn Thất Sơn, BS. Lê Minh Tâm, BS. Nguyễn Đức Mạnh, BS Nguyễn Kiêm, các anh hứng pháo Cộng sản sau này còn dữ dội hơn tôi nhiều.
Trước tôi, BS. Võ Đạm là một trong 3 Sĩ quan thuộc Bộ chỉ huy TĐ7ND còn sống sót trong trận Đồng Xoài.
Sau tôi, BS. Tô Phạm Liệu, ông BS cầm súng như dân tác chiến, cũng là 1 trong 3 Sĩ quan thuộc Bộ Chỉ huy còn sống sót ở ngọn đồi Charlie, ngọn đồi đẫm máu chôn xác TĐT/ TĐ11ND Nguyễn Đình Bảo.
BS. Đường Thiện Đồng sống sót trận Hạ Lào, hốc hác lội bộ về thấu tiền trạm.
BS. Vũ Văn Quynh, BS. Nguyễn Văn Thường, v.v… trốn tù cải tạo bị xử bắn,… và còn, còn rất nhiều nữa mà người Y sĩ Nhảy dù đã chia sẻ.
Tôi xin thán phục tinh thần Nhảy dù bền bỉ của các BS Mũ đỏ Trần Văn Tính, Phạm Gia Cổn, Lê Quang Tiến…nắm giữ chức vụ Chủ tịch BCH/ TƯ/ GĐMĐVN / Hải Ngoại để nối vòng tay lớn, tương thân, tương trợ.
Tôi không thấy ngượng ngùng khi BS Mũ xanh Trần Xuân Dũng ca tụng các Y sĩ Nhảy Dù, Y sĩ TQLC là “Những Hiệp sĩ của thời đại, những Đường Sơn Đại Huynh trên tiền tuyến lửa.”
Tôi không quên cám ơn các Chi Hội trưởng GĐMĐ vùng Hoa Thịnh Đốn như anh Nguyễn Văn Mùi, Lý Thanh Phi… thường nhắc tôi tham dự buổi cơm cuối năm của Gia Đình Mũ đỏ tổ chức để góp chút tình gửi về cho Thương Phế Binh Nhảy dù còn ở quê nhà.
Tôi cũng không thể nào quên nhắc đến tên các đàn anh như Y sĩ Đại tá Hoàng Cơ Lân, người anh cả nghiêm minh và vui tươi, Y sĩ Đại tá Bùi Thiều, con người tài hoa và là người điều hành xây dựng Bệnh viện địa đạo ngay trong căn cứ Khe Sanh mà báo chí Mỹ khen phục.
Bốn chữ “Giữ Đời Cho Nhau” của BS. Lê quang Tiến nhắn trong Đặc San 70 để thực hiện số báo đặc biệt về QYND/ SĐND làm sống dậy trong tôi những năm tháng đùa với tử thần.
Có nếm mùi cực khổ, tù đày rồi mới thấy Độc lập – Tự Do là quí. Có lâm vào cảnh đói rách, nguy hiểm rồi mới thấy tình Huynh Đệ Chi Binh là quí.
Xin nói thêm vài lời nữa là nếu không đọc quyển “ Y Sĩ Tiền Tuyến” của Trang Châu, không đọc bài viết của Phan Nhật Nam, của Trương Đăng Sĩ trong Đặc San Mũ Đỏ – 70 thì e cũng khó ngồi mài miệt cả tuần để viết nên những trang giấy này.
BS Trần Đoàn sau sang được Mỹ, ở tiểu bang Virginia, tu đạo Phật thành cư sĩ, rất có công trùng tu chùa Hoa Nghiêm ở đây.
Bác sĩ Trần Đoàn là quân y sĩ trong binh chủng Nhẩy Dù VNCH. BS Trần Đoàn có hai người con cũng là sĩ quan y sĩ của Không lực Hoa Kỳ là:
* BS Trần Đại vừa được thăng thưởng lên cấp bậc Y Sĩ Đại Tá, và
* BS Huỳnh Trần Mylene, Nữ Y sĩ Đại tá, Giám đốc Chương trình Y khoa quốc tế của không quân Hoa Kỳ (The Air Force International Specialist Program)
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.
Links:
http://svqy.org/2019/5-2019/nhung/nhung.html
Nixon bội hứa – Lâm Văn Bé
Đăng trong: Tháng Sáu 18, 2019 Filed under: Bài Đọc Hay, Biên Khảo, Human Rights, Politics | Tags: 30-4-1975 Bạn nghĩ gì về bài viết này?Hiệp định Paris 1973 ký ngày 27 tháng 1 năm 1973
Bài đọc suy gẫm: Nixon bội hứa hay 30-4 qua nhận định của những người chỉ huy cuộc chiến, biên khảo giá trị của tác giả Lâm Văn Bé. Hình ảnh chỉ là minh họa.
Nixon cụng ly cùng Chu Ân Lai tại Bắc Kinh, sau đó bỏ rơi miền Nam Việt Nam. Hình dưới: Sinh viên biểu tình phản đối chiến tranh vì bị nhóm khuynh tả giật dây tại Mỹ.
“Xuân ơi! Xuân ơi!” – Vương Mộng Long
Đăng trong: Tháng Tư 26, 2019 Filed under: Anh Hùng, Bài Đọc Hay, Hồi Ký, Human Rights, Lịch Sử, Nhân Vật, Tội Ác Việt Cộng Bạn nghĩ gì về bài viết này?Bài đọc suy gẫm: “Xuân ơi! Xuân ơi!” hay Thời Thế, Thiện, Ác và Con Người, tác giả Vương Mộng Long, ông cũng là sĩ quan Võ bị của Quân lực VNCH. cấp bậc sau cùng Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng, thuộc Liên đoàn 24 Biệt Động Quân. Hình ảnh có tính minh họa.
Thời Thế, Thiện, Ác và Con Người
Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.
Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay.
Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác.
Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.
Vương Mộng Long – K20 VBQGVN
***
Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương.
Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ vào nhà thương khám lại. Tôi tiếp tục đi hành quân, cho tới một ngày, thấy mủ màu đen bắt đầu nhỉ ra qua một lỗ rò dưới nách, tôi mới đi tái khám.
Nào ngờ, kết quả lần khám này cho thấy cái mảnh đạn súng cối ấy đã di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn.
Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.
Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II.
Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.
Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.
Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng.
Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.
Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương. Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết.
Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng.
Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư
– Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?
– Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!
– Việt-Cộng à?
– Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ).
– Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?
– “Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.
Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi.
– Hắn thuộc đơn vị nào vậy?
– Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.
– Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?
– Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.
– Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.
– “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm?
Tôi gật đầu, tán đồng,
– Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.
Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.
Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.
Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.
Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh.
Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp.
Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng.
Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản.
Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.
Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau.
Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên:
” Ối! Ối! Đau! Đau quá!… Ư!… Ư!… ư… ư…”
Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành:
“Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”
Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch.
Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.
Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì.
Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay.
Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay.
Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi.
Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.
Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.
Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.
Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm?
Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.
Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều…
Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra.
Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!
Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm.
“Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn.
Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể? Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!
“Here it is!”
Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn.
Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác.
Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ.
Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau.
Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.
Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.
Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào.
Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà.
Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu:
“Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby…”
Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt.
Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.
Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây.
Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người.
Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.
Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ,
– Thank you!
Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói.
Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,
– Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!
– Không thèm! Nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng.
Tôi tỉnh như ruồi,
– Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.
– Thuốc của đế quốc, không thèm hút!
– Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.
Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho.
Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.
Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,
– Take it! It’s good for you!
Tôi chêm thêm,
– Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!
Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,
– May you tell him to take it?
Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm,
– Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy!
Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.
Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe.
Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt-Cộng,
– Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.
Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.
– Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị “tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.
– Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.
– E mấy?
– Hăm Tám (28)
Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,
– Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó!
– Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.
– Cấp chức gì?
– Trung úy Đặc-Công.
– Quê ở đâu?
– Hải …”Rương”
– Làng nào?
– Hỏi gì mà lắm thế?
– Thôi không hỏi nữa!
Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.
Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.
Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài.
Mấy lần y mở miệng gọi tôi:
“Này! Này!”
Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya.
Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.
Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ,
– Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?
Tôi ngạc nhiên,
– Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?
Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,
– Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn.
Tôi phì cười,
– Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!
Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:
“Chẳng lẽ chính ủy nói sai?”
tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.
– Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò.
– Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?
Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng.
Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc.
Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện.
Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng,
– Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!
Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm.
Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn.
Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh,
– Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương…
Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái,
– Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra… các anh có độc ác đâu?
Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.
Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh, rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.
Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.
“Don’t throw it away! Keep it for memory!” bà dặn dò.
Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng.
“Take care! Good bye! My son!” phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.
Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: “Her son was a Ranger like you!”
Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.
Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.
Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình…
Tác giả Vương Mộng Long
***
Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư,
– Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?
– Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi.
Tôi biểu đồng tình,
– Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu?
Tôi hỏi tiếp,
– Sau này anh có còn gặp lại y không?
– Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?
Tôi nhắc anh Tư,
– Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?
– “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.
– Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .
Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp,
– Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.
Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng,
– Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy!
Anh Tư gật gù,
– Có khi hai người là bà con cũng nên?
Tôi cũng gật gù theo,
– Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”.
Anh Tư phụ họa,
– Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!
***
Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ, thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.
Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.
Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ.
Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau.
Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”.
Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ.
Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi ới:
“Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”
Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác.
Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng.
Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.
Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh.
Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố:
“Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”
Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ?
Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19.
Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra.
Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm,
– Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán.
Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:
– Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!
“Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3.
Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”.
Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai.
Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm,
– Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy!
Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.
Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân, ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.
Có một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!
Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta.
Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh, núp đàng sau một khuôn mặt điển trai.
Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?
Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước.
Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng.
Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói,
– Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả!
Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại!
Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm!
Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.
Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.
Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:
“Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”
Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.
Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.
Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,
– Lẹ lên! Lẹ lên!
Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc.
Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính canh.
Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng.
Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.
“Ối!…Ối! …Ối!…ôi!…ôi!…ôi!..ư…ư…ư..”
Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.
Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.
Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền.
Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp.
Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, “Hừ!… Hừ!…hừ! …hừ!…”
Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:
“Hừ!… Hừ!…Hừ!..Hường…ơi!…Hư…ường …ơi!…ực!… ực!…ực!…”
Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư! Ử!…Ư! Ử!…ư! ử!…” nhỏ dần.
Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.
Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa.
Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam.
Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.
Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi.
Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.
Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng.
Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17.
Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào… đứng một lúc, nghe ngóng … rồi đi vào.
Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương.
Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.
Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Thiếu Tá Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.
Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt.
Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.
Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian.
Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không?
Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.
Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện.
Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi.
Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.
Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay.
Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác.
Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.
Vương Mộng Long – K20 VBQGVN
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.
Links:
https://hung-viet.org/author/post/9131/1/vuong-mong-long
Bán Đứng Đồng Minh – Bùi Anh Trinh
Đăng trong: Tháng Tư 11, 2019 Filed under: Anh Hùng, Bài Đọc Hay, Biên Khảo, Hồi Ký, Human Rights, Lịch Sử, Nhân Vật, Nhận Định, Phân Tách, Politics, Quan Điểm, Sử Liệu | Tags: Anh Hùng, Biên Khảo, Lịch Sử, Nhận Định, việt nam %(count) bình luậnKể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval..
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí..
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)
Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.. Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên)..
Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ.
Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.
-Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).
Henry Kissinger viết trong hồi ký của ông:
“Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông, một kẻ sau này đã chiến bại bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông, đất nước ông và ngay cả ngoài vòng quyết định của chúng ta…” ( Henry Kissinger, Years of Upheaval, 1981, Bản dịch của Xuân Khuê)
Kissinger là người mà T.T. Nguyễn Văn Thiệu ghét cay ghét đắng cho tới khi xuống mồ. Trong khi ngược lại, Kissinger cũng làm ra vẻ ghét cay ghét đắng T.T. Nguyễn Văn Thiệu, kẻ mà báo chí và nhân dân Mỹ luôn luôn nguyền rủa là cản trở và phá hoại hòa bình.
Tuy nhiên cuối cùng, khi mà hòa bình đã đạt được bằng cái giá phản bội dân tộc Việt Nam, Kissinger mới bình tâm thú thực cảm nghĩ của ông ta về người anh hùng lãnh đạo đất nước Việt Nam trong thời gian gay cấn nhất của lịch sử. Kissinger nói :
“… Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ rút về bên kia bán cầu, còn dân tộc của ông vẫn còn cảnh một đội quân tiếp tục hy sinh cho những hy vọng mong manh của nền độc lập tại Đông Dương. Chúng ta đã chắc rằng biện pháp của chúng ta sẽ kềm hãm tham vọng của Hà Nội. Nhưng mắt của ông T.T. Thiệu chỉ quan ngại vào những điều mong manh về sau này…” ( Bản dịch của Xuân Khuê ).
Kissinger cũng thú thực là vì không còn cách lựa chọn nào khác cho nên Mỹ đành phải hy sinh Nam Việt Nam, và cũng vì vậy mà Kissinger đành phải đóng vai làm kẻ thù của T..T. Nguyễn Văn Thiệu nhưng tự sâu xa trong đáy lòng, Kissinger khâm phục T.T. Thiệu :
“…Như là một phép lạ phát xuất từ lòng dũng cảm, ông Thiệu đã cố gắng lèo lái quốc gia trong giai đoạn cam go này, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông …
… Về riêng tư tuy tôi dành ít cảm tình về ông T.T. Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông vì ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm ( nguyên văn: terrible loneliness ) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm tình và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao mòn đi…” ( Bản dịch của Xuân Khuê ).
Ngày 22-10-1972 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã nổi giận khi Kissinger ép buộc ông phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp định đình chiến mà Kissinger đã cùng Lê Đức Thọ soạn thảo tại Paris. Ông khuyến cáo Kissinger :
“Tôi không đồng ý về việc một số nhân viên của quý vị đi nói khắp Sài Gòn là tôi đã ký. Tôi chưa ký kết gì cả. Tôi không phản đối hòa bình nhưng tôi chưa nhận được một trả lời thỏa đáng nào của quý vị cho nên tôi sẽ không ký”.
Kissinger mất bình tỉnh với tuyên bố của Tổng thống Thiệu, ông nói ông đã thành công ở Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và Paris mà bây giờ ông phải thất bại tại Sài Gòn : “Nếu ngài không ký, chúng tôi sẽ xúc tiến một mình”.
Tới phiên Thiệu nổi giận, ông buộc tội Kissinger là thông đồng với Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để bán đứng Miền Nam. Hồi ký của Kissinger ghi lại lời lẽ của Thiệu:
“Là một quân nhân thì lúc nào cũng phải chiến đấu, nếu tôi không phải là một quân nhân thì tôi đã từ chức khi HK yêu cầu tôi từ chức và còn mặc cả với tôi về ngày giờ từ chức… … Tôi chưa hề nói với ai là người Mỹ đã đòi tôi từ chức, vì như vậy là nhục; cho nên tôi đã làm như tự mình chọn lấy quyết định đó…” (Kissinger, White House Years, trang 1385).
Kissinger đáp lại : “Tôi cảm phục tính hy sinh và lòng can đảm của ngài qua lời phát biểu vừa rồi. Tuy nhiên, là một người Hoa Kỳ, tôi không khỏi phiền lòng khi ngài cho rằng chúng tôi thông đồng với Liên Xô và Trung Quốc.
Làm sao ngài có thể nghĩ như vậy được trong khi quyết định ngày 8-5 của Tổng thống Nixon ( Thả bom Hà Nội và phong tỏa các hải cảng Bắc Việt ) đã liều cả tương lai chính trị của mình để giúp quý ngài. Chúng tôi điều đình với Liên Xô và Trung Quốc là để làm áp lực, buộc họ phải làm áp lực với Hà Nội… Nếu như chúng tôi muốn bán đứng quý ngài thì đã có nhiều cách dễ dàng hơn để hoàn thành việc đó…”( Kissinger, White House Years, trang 1385, 1386 ).
Rồi tới phiên Đại sứ Bunker mất bình tỉnh : “Vậy thì thưa Tổng thống, lập trường chót của ngài là không ký, có phải không?”
T.T. Thiệu đáp : “Vâng, đó là lập trường cuối cùng của tôi. Tôi sẽ không ký và tôi xin ngài thông báo cho Tổng thống Nixon biết như thế. Xin quý vị trở lại Washington và nói với Tổng thống Nixon rằng tôi cần được trả lời”.
Tổng thống Thiệu chỉ tay vào bản đồ Việt Nam rồi nói : “Có gì quan trọng khi Hoa Kỳ để mất một quốc gia nhỏ bé như Nam Việt Nam? Chúng tôi không hơn gì một chấm nhỏ trên bản đồ của thế giới đối với các ông… … Nhưng đối với chúng tôi, đó là một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết.
Đối với chúng tôi, đặt bút ký vào một hiệp ước tương đương với sự đầu hàng là chấp nhận một bản án tử hình, vì cuộc sống không có tự do là sự chết. Không, nó còn tệ hơn là sự chết” ( Larry Berman; No Peace, No Honor; trích từ Văn khố Bộ ngoại giao HK, bản dịch của Nguyễn Mạnh Hùng trang 230 ).
Sau 1975 thì người Mỹ muốn lái sự oán hận mất nước của nhân dân Miền Nam vào ông T.T. Nguyễn Văn Thiệu và quân đội VNCH để quên đi hành động “bán đứng đồng minh” của Mỹ *( Lời của ông T.T. Nguyễn Văn Thiệu nói thẳng vào mặt Kissinger năm 1972 ). Họ vận động các phương tiện truyền thông tiếng Việt tại hải ngoại kết án ông Thiệu làm cho mất nước. Họ kết án quân đội VNCH hèn nhát, tham nhũng v.v,… Họ dập tắt tiếng nói thanh minh của ông Thiệu và của những quân nhân VNCH. Họ thuê bọn vô lại biến phong trào chống Cọng sản tại hải ngoại thành những trò thối tha vô liêm sỉ….!
Hằng năm cứ vào mùa tháng Tư thì các phương tiện truyền thông tiếng Việt như RFA, BBC, …lại rộn lên những luận điệu kêu gọi hòa hợp hòa giải giữa chế độ CSVN và những người đã bị đuổi chạy ra nước ngoài. Họ coi những người rượt đuổi và những người bị đuổi đều tội lỗi như nhau.
Trong khi đó cuộc chiến Nam Bắc Hàn cũng giống hệt như cuộc chiến Việt Nam. Nhưng ngày nay RFA, BBC… nói cho con cháu Nam Hàn rằng năm 1950 quân Bắc Hàn tràn qua vĩ tuyến 38 đánh chiếm Nam Hàn. Quân đội Mỹ đã giúp nhân dân Nam Hàn đẩy lui quân Bắc Hàn về Bắc. Tội lỗi đều là phía Bắc Hàn chứ phía Nam Hàn không có lỗi.
Nhưng đối với cuộc chiến Việt Nam thì quân Bắc Việt cũng tràn qua vĩ tuyến 17 đánh chiếm Miền Nam nhưng Mỹ lại nói : Phía CSVN và phía VNCH đều có lỗi cho nên Mỹ đứng giữa không biết giúp bên nào !! Cho tới nay cũng chưa ngã ngũ bên nào phải bên nào trái.
Cũng vì chưa ngã ngũ bên nào phải bên nào trái cho nên cho tới nay danh dự của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn chưa được phục hồi. Người Mỹ vẫn muốn con cháu Việt Nam nhìn Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu như là một kẻ luôn luôn cản trở và phá hoại hòa bình.
Bùi Anh Trinh
Trớ trêu thay! – Nguyễn Sơ Đông
Đăng trong: Tháng Ba 7, 2019 Filed under: Bài Đọc Hay, Hồi Ký, Truyện Ngắn | Tags: Truyện Ngắn Bạn nghĩ gì về bài viết này?ourquoi le prononcer ce nom de la patrie?
Dans son brillant exil mon coeur en a frémi
II résonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d’un ami.
(Milly ou la terre natale – Lamartine)
Quê hương ấy nhắc chi thêm lưu luyến,
Giữa lưu đày rạng rỡ* xuyến xao lòng.
Từ xa xôi vọng lại vấn vương hồn
Bước chân cũ hay âm quen người bạn.
Bài đọc suy gẫm: Trớ Trêu Thay! hay “Nhớ Nhà” là lời tâm sự, chia sẻ kinh nghiệm của bác sĩ Quân Y – QLVNCH, Nguyễn Sơ Đông, blog 16 xin hân hạnh gởi đến bạn đọc nhưng tâm tình của tác giả.
![]() |
Tôi muốn đổi chữ “brillant” (rạng rỡ) thành “douloureux” vì trốn chui, trốn nhủi, vượt biên còn thua con chó đói, thì có gì là “brillant”. Sợ mang tội với Lamartine, lại thừa một “pied” (vế).
Tôi là thằng “lăn chai”, lúc nhỏ suốt ngày ở ngoài đồng, lội hết mương nầy đến rạch kia. Tôi không phải đi chăn trâu, nhưng tôi cỡi trâu “nghề lắm”. Leo lên lưng trâu đâu có dễ. Tôi mới sáu, bảy tuổi, đứng vừa qua khỏi ngang nửa bụng trâu, mà trâu đâu có “mọp” xuống như voi cho mình leo lên. Vậy mà thằng tui phóng lên ngang hông trâu cũng được, kẹp “đầu gối” (trâu) trước cũng xong, phăng lên bằng đầu gối sau cũng “phẻ” mà kéo đuôi cũng yên. Trâu tốt hơn “người ta”: không khi nào “đá giò lái”, không “đá ngược” bạn bè.
Nắng, mưa tôi có coi ra gì đâu? Mưa xối xả, mưa nặng hột,… tắm mưa càng vui. Tắm đến chừng da tái mét, run lập cập mới thôi. Một lát – có khi cả giờ nữa, nắng lên, khô queo,… thì lội nữa.
Tụi chăn trâu “nhà nghề” chỉ tôi đủ thứ hết: làm sao “cột dàm” con nghé để nó khỏi ăn mạ. Người ta vác chổi chà mà đập mầy đó (không đập trâu đâu, vì chổi chà có thắm thìa gì nó). Nhìn dấu ở cửa hang là biết có cua ở trỏng hay không, cua lớn hay cua “nghé” (cua con, kẹp đau lắm). Bắt cá bóng kèo thì phải dùng một chân chận cái ngách nó lại, câu cá trê phải sửa soạn mồi trước: đập mấy con ốc bươu, để qua bữa sau có mùi hôi hôi là cá trê nó đớp nhanh lắm, xúc cá ròng ròng coi chừng bị cá mẹ táp cẳng, vì bênh con (ròng ròng là cá lóc con, cỡ 1/2 ngón tay út, kho tộ mặn mặn, cay cay… ngon hơn caviar nữa. Mà tôi có bao giờ được ăn caviar đâu mà xạo vậy!). Bọt trắng nhuyễn trên mặt “mương”, nhưng bọt nào là ổ cá chìa vôi, chả làm gì được hết, bọt nào là ổ cá “xiêm”, loại cá lia thia xanh mun, đá chết bỏ chứ nhứt định không chạy.
Lên Saigon, “lội” gần hết “hang cùng ngõ hẹp” của quận Tư (sau nầy là quận Năm, dành tên quận Tư cho bên Khánh Hội), chui vào Đại Thế Giới coi hát “cọp”, băng cầu chữ Y, qua giang sơn của ông Bảy (Bảy Viễn), đi chen lấn giựt cái “lưỡi” ông Tiêu cúng rằm tháng Bảy.
“Nắng Saigon, anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”
Tôi có biết lụa là gì đâu? Hà Đông ở đâu? Thôi, tôi xin phép Nguyên Sa mà sửa lại:
“Nắng Saigon, tui đi mà chẳng ngán
Bởi vì da mốc thích “đui then” rồi.
Ra Chasseloup, đến mùa me chín, leo lên “rung” mạnh. Me rụng đầy đầu tụi ở dưới đất. Thằng nào ở “trển” vậy? Thằng Đông chớ ai vô đây.
Trước Bộ Y Tế có hai cây gừa, trái tròn, ngọt, cây chót vót, lại cũng thằng Đông leo. (Sau 75, tôi vẫn còn thấy hai cây nầy, già lão rồi, có ai để ý tới làm chi)
Vào lính, theo đơn vị hành quân, nhớ từng con suối nhỏ, từng gò mối, từng cây cầu khỉ,… nhứt là những nơi “đụng” nặng. Lính tử trận. Quan cũng đền nợ nước. Thứ hai, người vợ trẻ đưa chồng lên Đức Hòa. Thứ bảy, đã chít khăn tang. Nhưng tôi vẫn thương vẫn nhớ cái quận “nắng bụi, mưa bùn”… nghèo xơ nghèo xác nhưng đầy ấp tình người. Hoàng hôn xuống, nghe ảnh ương, nhái bầu, nhái bén, cả bao nhiêu thứ côn trùng hòa tấu “symphonie pastorale” nghe mà rụng rún.
![]() |
Giờ đây, lưu lạc xứ người, muốn nghe… có đâu mà nghe.
“Lòng quê đi một bước đường một đau ” (Kiều)
Tâm trạng nhớ nhà là vậy
Tôi không dám “nghĩ” hoặc “đoán” tình cảm của ai khác. Riêng với tôi thì: tình đầu, tình đuôi, tình giữa… gì gì, thì với thời gian cũng sẽ khuây khoả, rồi phai, rồi tàn và rồi thuộc về dĩ vãng, dù nó “apporte chaque jour tout le bien, tout le mal”.
Nhưng, nhớ nhà thì hoàn toàn khác, lạ. Như một định luật tự nhiên, “tên” nào “lội” nhiều, lăn lóc với “đất nước” nhiều,.. khi về già, nhớ nhà càng ray rứt, càng nhức nhối.
Cái khổ là càng muốn quên, càng lại nhớ. Có những đêm thức giấc, nhớ quá, không tài nào ngủ lại được. Nhớ ai, ai đâu mà nhớ. Nhớ NHÀ!
Lúc ở Chasseloup, đọc sách tả Tour Eiffel, Montparnasse, Les Invalides, Chateaux de la Loire.. náo nức muốn xem lắm. Giờ xem qua rồi thì “thôi”. Nó không “thấm” vào xương, vào tủy, vào tim, vào óc như cái nhớ nhà.
“… Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương. ”
(Làng Tôi – Chung Quân)
Chắc tại tôi là đứa “chả giống ai”. Thôi đành chịu vậy.
Mấy trang viết nầy không đầu, không kết, ý tứ lung tung, “à bâtons rompus”, “du coq – à – l’âne”. Bà con có xem thì “xính xái”, từ bi hỷ xã dùm. Thiện tai, thiện tai.
Thôi thì cứ xem như :“mémoires d’outre tombe” của tôi vậy.
Trước sau gì, cát bụi cũng sẽ về cát bụi
QUANDO SATIS DIXISTI, PERISTI
(Quand tu auras dit assez, tu seras mort)
(St Augustin)
“Mai đây trong chuyến tàu vạn cổ
Nếu có người thương đến tiễn đưa
Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ
Chút tình hệ lụy núi sông xưa”
(Giang Hữu Tuyên)
Đúng, hệ lụy núi sông xưa!
“Objets inanimés, avez vous donc une âme
Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer“
(Lamartine – Milly ou la terre natale)
Vật vô tri kia hỡi có linh hồn?
Sao mi quyện hồn ta trong thương cảm!
(Mailoc phỏng dịch)
Thôi đành
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng thử nhân sầu ”
(Thôi Hiệu)
Vậy, tôi đã làm được gì?
* Gia Đình: Trả hiếu?
– Má tôi mất sớm quá, tôi có nhớ gì đâu, nhứt là mấy tháng cuối cùng, mỗi lần tôi muốn tới gần Má tôi, thì các dì, cô, cậu… (đều ở nhà tôi để săn sóc má tôi) bảo: “Con ra ngoài chơi đi, để má con ngủ”, ngủ yên… Yên Giấc Ngàn Thu.
– Tôi có làm được gì giúp Ba tôi đâu. Chưa xong y khoa, niềm an ủi duy nhứt của tôi là: tôi đã cố hết sức nghe lời Ba tôi, dĩ nhiên, đôi lần chuyện nầy, chuyện nọ, chuyện “đâu đâu” làm Ba tôi không vui.
– Tôi rất mừng là đã cùng vợ tôi quyết định “sinh tử”: chết thì chết chung, không thể sống với vc được. Tụi nó không lương tâm, không tim, không óc, không cả tình người. Ít nhứt, dung thân ở xứ lạ, không ai ngăn cấm con tôi: “Mầy là con sĩ quan ngụy, không được lên cấp ba”. Đó là nguyên văn của tên “giám hiệu” trường Petrus Ký (tôi khôngmuốn nhắc tên mới của trường) khi đứa con trưởng của tôi học xong lớp 9 (classe de 3è) không được lên lớp 10 (classe de seconde). Đuổi học.
* Tổ Quốc: xin cho tôi mượn hai câu thơ của một nhà văn “gốc lính”
“Cúi đầu tạ với quê hương
Tôi còn một nửa đoạn đường chiến binh”.
Tôi đã đội trên đầu sáu chữ: DANH DỰ, TỔ QUỐC, TRÁCH NHIỆM. Ngày nào còn thở tôi còn tôn thờ. Chỉ khi nhắm mắt thì trách nhiệm của tôi với tổ quốc VNCH mới kể là hết.
Je ne fléchirai pas ! Sans plainte dans la bouche,
Calme, le deuil au coeur, dédaignant le troupeau,
Je vous embrasserai dans mon exil farouche,
Patrie, ô mon autel ! Liberté, mon drapeau !.
(Victor Hugo – ultima Verba)
Ta vẫn chẳng khom lưng đâu! Không kêu ca trong miệng
Bình tĩnh, đau thương, khinh cả bọn theo hùa
Trong cảnh đày, ta vẫn ôm chẳng chuyển
Tổ quốc, bàn thờ thiêng! Tự do, đẹp lá cờ!
( Bản dịch của Xuân Diệu – Lời Cuối Cùng)
THAY LỜI CUỐI
Những dòng sau đây, tôi:
– Kính dâng quý Trưởng Thượng, Niên Trưởng đã rời Việt Nam trước 30-04-1975
– Gởi đến thế hệ trẻ, những người chưa “nếm” mùi vc.
Tôi dạy vạn vật ở Petrus Ký từ năm 1963. Lúc bấy giờ, thi Tú Tài 1 và 2 còn vấn đáp. Chưa khi nào tôi hỏi lý lịch thí sinh trước khi cho điểm. Nói chung, trong suốt lịch trình thi, tất cả Giáo sư đều xử sự như thế.
Tết Mậu Thân, con đường tiếp liệu (y dược, y cụ..) của đơn vị tôi bị vc (đã chiếm Vinatexco, Vifon, và các hãng kế cận) đóng chốt. Tôi phải liên lạc với cố vấn đơn vị tôi, trình với cố vấn trưởng (cố vấn cho Tư Lệnh Sư Đoàn) cho phép tôi dùng trực thăng riêng của ông về căn cứ 73 tồn trữ y dược, nhứt là bông, băng, băng cá nhân, nước biển và trụ sinh.
Trớ trêu thay: người thương binh đầu tiên được truyền chai nước biển “nóng hổi” vừa được trực thăng mang về là một vc.
Trong hơn bốn năm trấn ở Đức Hòa, tôi đã gọi tản thương bằng trực thăng về Tổng Y Viện Cộng Hòa ít nhứt là mười vc bị thương nặng. Không tản thương thì chắc chắn 100% chúng đi“chầu Bác” rồi.
Dù mưa, dù nắng, một giờ khuya, hai giờ sáng,… chưa lần nào phi hành đoàn hỏi tôi tản thương lính nào vậy? QLVNCH hay vc. Tất cả đơn vị Quân Y QLVNCH đều làm như thế.
Tôi muốn viết thật rõ, hét thật to, ý nghĩ thật trong sáng: Tôn chỉ của dân VNCH, của QLVNCH, của chính phủ VNCH là TÔN TRỌNG CON NGƯỜI, cách hành sự chứa đầy tình người.
Sau 04/1975, bọn khát máu chóp bu vc đã ra lệnh phá tan nát xã hội miền Nam, mà nền tảng là gia đình. Bao nhiêu gia đình sĩ quan QLVNCH, viên chức VNCH bị gây áp lực đến đổ vỡ.
Bao nhiêu dân miền Nam bị lừa gạt, rồi bị ép tử, bỏ cho chết, chết đói, chết vì bệnh tật,… ở những khu gọi là kinh tế mới.
Bao nhiêu thanh thiếu niên “con ngụy” bị ép buộc qua Miên làm bia đỡ đạn cho vc.
Bao nhiêu trăm ngàn người VNCH đã thiệt mạng trên đường tìm tự do, thoát ách vc.
Trong mấy ngàn năm lịch sử dân tộc, có lần nào mà người dân Việt Nam, vốn rất gắn bó với “quê cha đất tổ”, với “mồ mả ông bà” liều chết, bỏ nước ra đi tìm tự do đông đến số triệu.
Tôi viết để quý vị Trưởng Thượng và thế hệ trẻ hiểu được mức độ khát máu, tàn ác, vô nhân đạo, đầy thú tính của vc.
Riêng cá nhân tôi, tôi không thù hằn vc vì:
1- Tôi đã hấp thụ nền giáo dục nhân bản miền Nam
2- vc không xứng đáng để tôi thù hằn, vì vc đã mất hẳn tính và tình người.
Tôi rất cám ơn, thương mến, kính yêu “bà xã” tôi đã chịu bao nhiêu cay đắng, cực khổ tảo tần giữ vững gia đình, lo cho bốn đứa con tôi.
Hiện giờ, chúng là công dân đơn thuần (simple citoyen) của quốc gia tạm cư, không là “quan to, quan bé” gì hết. Nhưng, người ta đã đối xử với chúng tôi rất ấm áp tình người.
Nguyễn Sơ Đông