“Con đường ít bị kẹt nhứt” – Lâm Lễ Trinh

Bài đọc suy ngẫm: “… Con đường ít bị kẹt nhứt” là câu nói của Anh hùng Trần văn Bá, bài viết của tác giả Lâm Lễ Trinh viết về anh, người từ bỏ cuộc sống nhàn nhã nơi xứ người, trở về lại Việt Nam tranh đấu. Nhân ngày giỗ anh Bá, ngày 8 tháng 1 hàng năm. Blog 16 trích đăng bài viết về tiểu sử, lý tưởng, hoài bảo của vị anh hùng, người làm sống lại khí phách của vụ Yên Bái năm 30.

Theo tác giả đây là vụ Yên Bái 1984

Trần Văn Bá sinh ngày 14.5.1945 tại Sa đéc, là thứ nam của cố dân biểu Trần Văn Văn và vừa tròn 17 tuổi khi thân phụ bị thảm sát ngày 7.12.1966. Ngày 2.1.1967, Bá qua Paris, đoàn tụ với anh là kỷ sư Trần Văn Tòng, ghi tên vào trường trung học Carnot và sau đó, Michelet để chuẩn bị lấy bằng Tú tài. Vì rớt hạch miệng tại trường Cao đẳng thương mãi HEC, Bá đổi qua môn kinh tế và thi đậu bằng cử nhân tại Đại học Assas (thiên hữu) năm 1971. Bá được tuyển dụng làm phụ tá giáo sư tại trường Đại học Nanterre, nổi tiếng thiên tả, mặc dù Bá hoạt động hăng hái trong phong trào sinh viên Việt chống cộng.
Bá không bô trai, hom hem gầy yếu, độc thân, ít nói. Sau cái vó “con cóc chết”, Bá cởi mở, chân tình, lạc quan, luôn luôn xung phong lảnh việc khó, giúp mọi người, bởi thế, thu hút cảm tình mọi giới. Vì mang một vết son lớn trên trán, Bá được bạn bè tặng cho biệt danh Bá Đầu Đỏ. Ăn bận xuềnh xòang, không thích tán gái, sống khắc khổ trong một căn gác nghèo tại Bourg-la-Reine, Bá thường la cà nơi tiệm cà-phê Châlet du Parc, tại Parc Montsouris để tán gẩu với bạn học cũ tại Lycée Yersin Đà lạt. Bá mê Adam Smith, thích xem phim xưa loại Le Pont de la Rivière Kwai, La Grande Illusion, Pour qui sonne le glas.Ngoài việc giảng huấn, Bá xông xáo hoạt động thanh niên, tổ chức trại hè Nối Vòng tay lớn 1973, và cổ động trí thức thành tài về nước phục vụ. Năm 1972, Bá đắc cử chủ tịch Tổng hội sinh viên VN, giữ chức này bốn khóa, cổ võ xây dựng côïng đồng, chống tuyên truyền của cộng sản Hànội…

Tháng 4.1975, Sàigòn thất thủ. Mất tòa Đại sứ, mất Câu lạc bộ, mất trụ sở, Ban chấp hành Tổng hội sinh viên rút về ngoại ô Paris, trên lầu 6 của một chung cư, đường Maréchal Joffre. Giới người Việt ở Pháp hoang mang tột độ.
Ngày 30 tháng tư, trong cảnh hỗn loạn, Bá (30 tuổi) giữ bình tỉnh, chạy đến Phòng lãnh sự VNCH, đại lộ de Villiers Paris. Ông đại sứ tự ý giải nhiệm. Tòa Đai sứ tuyên bố đóng cửa chính thức ngày thứ sáu. Nhưng Tổng hội sinh viên vẫn tồn tại, đưa lưng gánh vác một gia tài tủi nhục. Với một số bạn, Bá phụ đốt các hồ sơ, cấp phát chứng thơ cần thiết cho kiều bào, chuyển sách vở, phim ảnh vể những điểm mật của Tổng hội sinh viên. Bá tuyên bố: “Sinh viên tiếp tục đấu tranh. Hãy giúp chúng tôi!” Tới phút chót, lúc 6 giờ chiều, đại sứ Nguyễn Duy Quang trao cho Bá một ngân phiếu khiêm nhượng, tiền dư bạc thừa, quỷ đen, quỷ đỏ. Sáng thứ hai, khi đại diện của Tổng hội ra băng để lãnh thì trương mục của Sứ quán đã đóng từ tuần trước!
Bá không nản chí, luôn luôn đứng đầu mủi dùi. Dù thiếu phương tiện, dù bị hăm dọa từ mọi phía. Tổng hội sinh viên cắn răng hoạt động. Tết 1976, Bá và các bạn tổ chức biểu tình đả đảo Hanoi tại Salle de la Mutualité với khẩu hiệu “Ta Còn Sống Đây!”

Tổng hội xoay qua đón tiếp, giúp đở và ủy lạo – với tiền ít nhưng lòng nhiều! – các đợt sóng thuyền nhân đầu tiên. Bá chỉ huy, tổ chức (đôi khi…”xà ngầu”),và phát ngôn không hùng hồn nhưng chinh phục mọi người vì tân tụy hết mình, làm việc bất kể giờ giấc, cắt liên lạc với mẹ, anh và chị sống tại Paris.
Năm 1977, khi Phạm Văn Đồng viếng Paris, Bá và các bạn xuống đường, đánh lộn bằng gậy, gộc, cây, búa với phe Việt kiều cộng sản, Tây cộng và sinh viên ngoại quốc thiên cộng, đông hơn. Kết quả: cuộc triển lãm và hội thảo CS tại cư xá sinh viên quốc tế đường Jourdan phải hủy bỏ. Vì lý do an ninh.
Bá nói: “Người ta nói chúng tôi nhận tiền của CIA, bị Bắc Kinh giựt giây. Không ai biết tôi đang khám phá con người thật của tôi.” .
Rồi mẹ của Bá vượt đến Pháp trong số thuyền nhân. Bá mất việc làm, phải nhờ anh là kỷ sư Tòng phụ cấp. Tòng hỏi Bá: “ Đây có phải là lúc chống cự như vậy hay không? Cậu sẽ phải lội qua đại dương! !”.
Bá cười: “Đó là con đường ít bị kẹt nhứt. Khi Hồ, Giáp và Đồng bắt tay vào business của họ, họ chỉ là 4 hay 5 người. Lúc đó, đảng CS yếu xìu. dân nghèo đã khuyến khích họ ”
Đúng thế, Bá nghĩ rằng vấn đề dân chủ và thuyền nhân phải được giải quyết tại Việt Nam, bằng sự tranh đấu bên trong. Nếu người Việt không tự giúp, ai sẽ giúp họ?
Nói là làm. Lối 1979, Bá biệt tích tại Pháp. Tin đồn Bá bí mật bay qua Bangkok, vào Thái lan, Cam bốt, Việt Nam. Bá về bưng. Ngày 6.6.1982, Bá viết thơ từ nước Thái:
“ Tôi vẫn mạnh khoẻ. Rất khó, khó thật. Nhưng tôi thấy tôi mạch lạc với chính tôi và đoàn kết với đất nước tôi, nghèo nàn, khốn khổ, đói rách. Tương lai Việt Nam tùy thuộc nơi thành phần đối kháng bên trong, không phải nơi các chính trị gia lưu vong.”
Trong môt bức thơ khác, Bá than: “Điều khủng khiếp nhứt là sự cô đơn. Tìm đâu ra những giá trị nhân bản, tôn giáo, trí tuệ? Đừng nói những gì chúng tôi đang làm là vô bổ.”

Chiều 11.9.1984, có tin Trần Văn Bá bị bắt với (cựu phi công) Mai Văn Hạnh tại Minh Hải trong lúc công tác, trên chiếc xe hơi của một cán bộ cao cấp CS.
Vì bất cẩn hay vì bị gài bẩy?
Ngày 8.1.1985, tại Nhà Hát lớn Saigon, trụ sở của Hạ viện cũ thời quốc gia, Tòa án Nhân dân Tối cao – sắp xếp như một trò hề công lý, một vở tuồng cải lương – tuyên xử Bá và 20 can phạm khác thuộc Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải Phóng Việt Nam về tội “phản bội tổ quốc, chống phá cách mạng”.
Các “chiến lợi phẩm tịch thu được từ các kháng chiến quân” được triển lãm ở nơi đây.Nhà chức trách còn đặt nhiều máy phóng thanh tại công trường Lam Sơn để dân chúng – trên 1000 – theo dõi diễn tiến của vụ án từ bên ngoài.
Trong bản cáo trạng, công tố viện Trần Tế cho biết: ngay từ đầu tháng giêng 1981 cho đến tháng 9.1984, cơ quan an ninh Nhà nước đã phát hiện được “mười toán gián điệp” xâm nhập vào VN với sự hổ trợ của Trung quốc, Thái lan và Hoa kỳ. Tổng cộng 119 người, bị bắt giam hoặc giết chết.
Cá nhân Bá bị truy tố về tội đã chỉ huy, từ 1981 cho đến tháng 9.1984, nhiều nhóm kháng chiến xâm nhập VN, một chuyến đường bộ từ Thái lan về An giang với sự giúp đở của phe Pol Pốt và chín chuyến đường biển từ Thái đến mật cứ ở Minh Hải và Phú Khánh, đưa lậu vào VN hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược.
Báo Quân đội Nhân Dân số 8456 ghi: “Bá, người thấp, gầy, ra trước Tòa lúc 15 giờ ngày 14.12.1984, thường chỉ nói rất ngắn, rất nhanh”

Ông Lê Quốc Túy đáng lẽ cũng đi cùng toán thứ mười nhưng vì phải vào nhà thương ở Pháp vào giờ chót nên thoát nạn. Ngày 27.12.1984, ông họp báo tại khách sạn sang trọng Lutétia, Paris với tư cách ủy viên đối ngoại của Mặt trận nói trên. Trước báo chí ngoại quốc đông đảo, Túy – trên ngũ tuần – xác nhận lãnh tụ Mặt trận còn ở trong xứ và một số chiến sĩ của tổ chức đã bị bắt từ 1980. Một trận đánh lớn đã xảy ra tại Hà Tiên gây thiệt hại cho khoản 120 cán binh Việt cộng.Theo ông Túy, không có nước nào giúp. Súng đạn do chính cán bộ hồi chính CS cung cấp hay binh lính CS bán lại. Trong số 21 người bị xử, có hai cựu cán bộ cao cấp CS.
Đồng minh của Mặt trận là Kháng chiến Khờ-me. Mặt trận không có liên lạc với nhóm Hoàng Cơ Minh nhưng nếu cần, sẵn sàng giúp đở. Trả lời một câu hỏi, Túy cho biết Mặt trận, trong giai đoạn hiện tại, chưa chủ trương thiết lập những vùng giải phóng mà chỉ chú trọng xây dựng những cơ cấu nhỏ để từ đó, xâm nhập vào guồng máy và hàng ngũ bộ đội CS.Đáp một câu hỏi khác, Túy xác nhận số võ khí do CS trưng bày tại Tòa án là thực nhưng “chúng tôi còn nhiều hơn thế nữa.”
Điểm đáng lưu ý: Bản cáo trạng có ghi Mặt trận của Lê Quốc Túy được sự hậu thuẩn của cố Thủ tướng Trần Văn Hữu, nhóm Lai Hữu Tài, Lai Hữu Sang và nguyên nghị sĩ Hòa Hảo Lê Phước Sang (đọc bài Vụ án Yên Bái 84 của Trần Phổ Minh, trong tuyển tậpTrần Văn Bá) Trần Quốc Mạnh, một trong các luật sư (quốc doanh) được chỉ định để biện hộ thí cho nhóm bị can, làm cho các khán giả nực cười khi y tuyên bố:
“Các can phạm đã vi phạm luật. Không ai bào chửa cho họ được vì họ là những người tội đồ phản quốc”.
Tại phiên Tòa, Hồ Thái Bạch bị đàn áp bằng dùi cui khi lớn tiếng phản đối.
Huỳnh Vĩnh Sanh bị bịt miệng khi hô to “VN Cộng hòa muôn năm!”
Sau bốn ngày diễn trò bịp bợm, Tòa tuyên án

1) Tử hình: Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh, Huỳnh Vĩnh Sanh, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch
2) Chung thân : Trần Nguyên Hùng, Tô Văn Hườn, Hoàng Đình Mỹ.
3) từ 8 đến 20 năm tù: 13 kháng chiến quân còn lại.

Nhiều cuộc biểu tình xảy ra ở ngoại quốc để phản đối nhà cầm quyền cộng sản, Đức Giáo hoàng và Tổng thống và Thủ tướng Pháp cùng nhiều nhân vật chính trị và tôn giáo trên thế giới can thiệp.
Mười bốn hội đoàn thanh niên tại Đan Mạch, Đức, Thụy sĩ, Bỉ và Pháp xuống đường tố cáo Hànội.
Trần Văn Tòng, anh của Bá, phối hợp một Ủy ban quốc tế để tranh đấu cho các tội nhân. Lễ cầu an được tổ chức khắp nơi.
Dưới áp lực quốc tế, nhà cầm quyền Việt nam đổi án tử hình của hai can phạm có Pháp tịch là Mai Văn Hạnh và Huỳnh Vĩnh Sanh thành khổ sai chung thân.
Trần văn Bá (mặc dù mang sổ thông hành Pháp), Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch bị hành quyết tại khám đường Thủ Đức ngày 8.1.1985.
Một thông cáo vắn tắt của Nhà nước cho biết tin này.
Xác của các tử tội không được trả lại cho gia đình.
Trên 3.000 đồng bào VN biểu tình tuần hành tại Paris ngày 10.1.1985 từ Maison de la Radio, quận 16, đến trước sứ quán Việt cộng để tỏ sự căm phẩn với bạo quyền Hànội.
Hiện nay Lê Quốc Túy ở đâu ? hoạt động ra sao? Không ai được biết.
Vụ án Trần văn Bá và chiến hữu làm sống lại khí phách của vụ Yên Bái năm 30. 


Đây là vụ Yên Bái 1984.
Vụ đầu, kháng thực dân Pháp.
Vụ sau, chống độc tài cộng sản, ghê tởm hơn nhiều.
Liệt sĩ thời đại mới Trần Văn Bá đã gieo hạt giống tốt.
Bá không hy sinh vô bổ. Gương của Bá đáng ghi vào sử xanh.
Chống Pháp và Mỹ, Cộng sản đã thắng.
Chống dân tộc Việt, Cộng sản chắc chắn sẽ thảm bại phen này.

LÂM LỄ TRINH
Xuân Ất Dậu
Thủy Hoa Trang – California

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Blog Tiếng Quê Hương


“Xin đừng bịt mắt” – Trần Đại Sĩ

Bài đọc suy gẫm:  Mời bạn đọc cùng tưởng niệm về các quân dân cán chính VNCH đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ non sông, đất nước, những đồng bào tử nạn khi vượt biển tìm Tự do. Mong hàng năm, khi tháng tư đến chúng ta luôn nhắc nhở, ôn lại, câu chuyện tang thương ngày nào, đồng thời nhớ về những anh hùng thời chiến. Nhân dịp 30-4- 2023, Blog 16 trích đăng về một Thiếu Sinh Quân tài giỏi của Quân lực VNCH qua câu chuyện “Xin đừng bịt mắt” hay “Vài nét về một anh hùng” của tác giả Yên Tử Cư Sĩ – Trần Đại Sĩ. Hình ảnh (internet) chỉ có tính minh họa.

****

Năm 1966, khi đọc trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Đại Nam Nhất Thống Chí viết về “Ngụy Tây Sơn,” có nhiều nghi vấn trong những trận đánh giữa Vua Quang Trung và Vua Gia Long tại rừng U Minh, tôi nảy ra ý xuống vùng tận cùng của đất nước này tìm hiểu thêm. Bấy giờ đang xảy ra vụ biến động tại miền Trung “các thầy mang bàn thờ xuống đường,” chiến cuộc tại miền Tây cực kỳ sôi động, mẹ tôi, bà má má (vú nuôi) cực lực phản đối vì đi như vậy dễ tiêu dao miền Cực Lạc lắm. Nhưng bố tôi, sau khi tính số tử vi của tôi, cụ lại khuyên tôi nên đi. Cụ nói:

– Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng lầy Cà Mâu.

Tôi nhất quyết đi, bà má má khóc khốn khổ, nhưng cũng không cản được cái tính phiêu lưu và mê sưu tầm của tôi. Nhưng làm thế nào để có thể vào được tất cả những làng, những xã, mà không gặp trở ngại? Làm sao có phương tiện di chuyển? Chỉ một cú điện thoại, ông bố tôi đã kiếm cho tôi cái giấy giới thiệu của tuần báo trung lập lớn nhất ở Paris. Bà má má kiếm cho tôi giấy giới thiệu của tờ nhật báo Hoa Văn tại Hương Cảng. Thế là tôi bỗng trở thành ký giả bất đắc dĩ. Tôi đến Bộ Tư Lệnh MACV xin giúp phương tiện làm phóng sự chiến trường ở Vùng 4 Chiến Thuật. Tôi chỉ mong tìm hiểu lịch sử, chứ nào có chủ tâm làm ký giả!

Nhưng sau chuyến đi ấy, quá xúc động về cuộc chiến tranh thê thảm, tôi đã viết rất nhiều bài ký sự chiến trường, đăng trên một số báo ngoại quốc. Khởi đầu, uất hận trước cái chết của một cô bạn gái tên Đặng Thị Tuyết, mới hai mươi tuổi, làm nữ cán bộ Xây Dựng Nông Thôn tại Kinh Tắc Vân, Cà Mâu, tôi viết bài “Giang Biên Hoa Lạc” gây xúc động mạnh cho độc giả Hương Cảng và giới Hoa kiều tại Việt Nam. Sau tôi có dịch bài này sang tiếng Việt với tên là “Hoa rơi trên bờ sông Tắc Vân.” Tôi gởi bài này dự thi giải ký sự chiến trường của cục Tâm Lý Chiến năm 1967. Bài của tôi được giải nhì. Giải nhất về Trang Châu cũng là một bài ký sự của y sĩ tiền tuyến. Một trong các giám khảo nói với tôi: “Về nội dung, bài của cháu với Trang Châu cùng nói lên niềm mơ ước của tuổi trẻ quên mình cho quê hương. Nhưng bài của Trang Châu trung thực, còn bài của cháu thì ướt át quá, thê thảm quá, dù rằng đó là sự thật.”

Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi viết về Hồ Ngọc Cẩn trong bài “Ngũ Hổ U Minh Thượng” kể chuyện năm tiểu đoàn trưởng nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, nhất là phong lưu tiêu sái, tại chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ hổ là:

– Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/33

– Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân. – Thiếu Tá Lê Văn Hưng

Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/31 – Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt

Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. – Đại Úy Vương Văn Trổ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/33

Ngày 29 tháng 4 năm 1966, tôi tới Phi Trường Vĩnh Lợi bằng phi cơ Caribu của quân đội Hoa Kỳ. Người đón tôi là Thiếu Tá Raider của Cố Vấn Đoàn 42. Tại bản doanh của Cố Vấn Đoàn 42, Đại Tá Cố Vấn Trưởng Hataway không biết gì về chủ đích chuyến đi của tôi. Ông chỉ căn cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo cấp, mà đoán rằng tôi là tên thầy thuốc trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm ký giả. Ông cho tôi biết tình hình địch rất chi tiết. Về tình hình của quân đội Việt Nam tại năm tỉnh tận cùng của đất nước, ông nói:

“Khu 41 Chiến Thuật, do Sư Đoàn 21 của Quân Đoàn IV trấn nhậm, Sư Đoàn có ba trung đoàn mang số 31, 32, 33. Trung Đoàn 31 đóng tại Chương Thiện. Trung Đoàn 32 đóng tại Cà Mâu. Trung Đoàn 33 đóng tại Ba Xuyên. Ngoài ra còn có hai tiểu đoàn Biệt Động Quân mang số 42 và 44. Tiểu Đoàn 42 đóng tại Bạc Liêu. Tiểu Đoàn 44 đóng tại Ba Xuyên.” Ông ca tụng quân đội Việt Nam như sau: “Lương bổng cho người lính Việt Nam, chỉ gọi là tạm đủ ăn. Doanh trại không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng họ chiến đấu như đoàn sư tử. Tuy vậy vẫn có những điều đáng phàn nàn. Ông là thầy thuốc cầm bút, xin ông lướt qua những cái đó.”

Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn. Tôi được gởi theo Tiểu Đoàn 42 BĐQ. Tiểu đoàn trưởng là Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt. Tiểu đoàn phó là Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Cái tréo cẳng ngỗng là đối với cố vấn Mỹ thì tôi là ký giả. Còn Kiệt với Cẩn lại tưởng tôi là bác sĩ tình nguyện ra mặt trận. Tiểu Đoàn được đặt làm trừ bị tại Phi Trường Vĩnh Lợi từ bảy giờ sáng, chuẩn bị nhảy trực thăng vận. Nếu khi nhẩy, thì Tiểu Đoàn sẽ nhẩy làm hai cánh: Cánh thứ nhất gồm có hai đại đội 1, 2 do Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy. Cánh thứ hai gồm có hai đại đội 3 và 4 do Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt chỉ huy. Tôi và Kiệt, Cẩn ngang ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người tập võ, coi trời bằng vung, lại cũng có học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận nhau dễ dàng. Đại Úy cố vấn tiểu đoàn muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy. Anh hỏi tôi:

– Lần đầu tiên ra trận, ông có sợ không?

Tôi trả lời như những nhân vật trong lịch sử Việt Nam:

– Tráng sĩ khi ra trận, không chết thì cũng bị thương. Nếu sợ chết thì đừng ra trận.

Cẩn hỏi tôi đã học quân sự chưa? Tôi đáp:

– Kiến thức về quân sự của tôi chỉ bằng phó binh nhì thôi. Nhưng cũng biết bò, biết núp, biết nhảy, biết bắn. Đánh nhau bằng súng thì tôi dở ẹt, nhưng đánh cận chiến thì tôi có hạng, vì tôi là ông thầy dạy võ.

Thông dịch viên dịch lại cho binh sĩ nghe. Họ khen tôi:

– Ông bác sĩ này ngon thật!

Tôi hỏi Kiệt:

– Trong hai cánh thì cánh nào có hy vọng được đánh nhau nhiều hơn?

Kiệt chỉ Cẩn:

– Anh cứ nhảy theo thằng này thì sẽ toại nguyện. Tha hồ mà hành nghề.

Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt phái cho tôi một y tá cấp trung sĩ, với đầy đủ thuốc cấp cứu. Trên lưng tôi chỉ có bộ đồ giải phẫu dã chiến. Khoảng 10 giờ thì có lệnh: Một đơn vị địa phương quân chạm địch tại Vĩnh Châu. Địch là Tiểu Đoàn Cơ Động Sóc Trăng. Tiểu đoàn phải nhảy trực thăng vận đánh vào hông địch. Địa điểm nhảy là một khu đồng lầy.

Sau khi Kiệt họp các sĩ quan tóm lược vắn tắt nhiệm vụ, tình hình trong mười phút, Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại đội đã lên trực thăng từ bao giờ. Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng. Hai mươi lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực thăng bay khoảng mươi phút, thì Cẩn chỉ vào một khu làng mạc trước mặt:

– Kìa, chỗ chúng mình đáp kìa.

Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái, hơn hai trăm người từ trực thăng lao ra. Một cảnh tượng mà tôi không bao giờ quên: Những người lính dàn thành một hàng ngang. Họ núp vào những bờ ruộng, mô đất, tay thủ súng, mắt đăm đăm nhìn về trước. Đó là một làng, lưa thưa mấy chục ngôi nhà, cây dừa xanh tươi. Mặc dù súng trong làng bắn ra, nhưng những người lính ấy vẫn chưa bắn trả. Tôi đưa mắt nhìn một lượt, các sĩ quan, người thì nằm, người thì quỳ, cũng có người đứng. Từ lúc nhẩy xuống, Cẩn không hề nằm quỳ, mà đứng quan sát trận mình, quan sát trận địch. Một là điếc không sợ sấm, hai là tự tin vào số tử vi của mình thọ, tôi cũng đứng.

Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nhì đã nhảy xuống trận địa. Trận vừa dàn xong, thì sĩ quan đề lô xin pháo binh nã vào những chỗ có ổ moọc chê, đại liên, trung liên trong làng. Một lệnh ban ra, hơn bốn trăm con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn vừa xung phong vào trong làng. Trong khi súng trong làng bắn ra, đạn cầy các ụ đất, trúng vào ruộng nước, bụi, nước bắn tung. Hàng quân tới bờ ruộng cuối cùng, cách bìa làng không đầy năm mươi thước thì súng nhỏ từ trong mới nổ. Cả hàng quân đều nằm dài sau các bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan đề lô trúng đạn lật ngược. Tôi chạy lại cấp cứu thì không kịp, viên đạn xuyên qua sọ anh. Thế là pháo binh vô hiệu.

 Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện và Trung Tá Cố Vấn Mỹ Craig Mandeville

Trực thăng võ trang được gọi đến. Cố vấn Mỹ báo về Trung Tâm Hành Quân. Cố vấn tại Trung Tâm Hành Quân ra lệnh cho phi công trực thăng nã xuống địa điểm có địch quân. Tôi đứng cạnh Cẩn tại một mô đất. Cẩn không trực tiếp cầm máy chỉ huy, mà ra lệnh cho các đại đội, trung đội qua hiệu thính viên. Sau khi trực thăng võ trang nã ba loạt rocket, đại liên thì lệnh xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn reo lên như sóng biển, rồi người người rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười phút sau, tiếng súng im hẳn.

Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù binh bị thương nặng được băng bó, cầm máu, rồi trực thăng tải về quân y viện. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy những binh sĩ bị thương khá nặng, khi nghe tôi nói rằng nếu họ muốn, tôi có thể gắp đạn, may các vết thương đó cho họ mà không phải về quân y viện. Họ từ chối đi quân y viện, xin ở lại để tôi giúp họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm việc hơn một giờ đồng hồ mới xong. Tôi hỏi Cẩn:

– Tôi tưởng, thương binh được về quân y viện chữa trị là điều họ mong muốn mới phải. Tại sao họ muốn ở lại? – Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống với nhau, kề cận cái chết với nhau, thì xa nhau là điều buồn khổ vô cùng. Đấy chúng nó bị thương như vậy đấy, lát nữa anh thấy chúng chống gậy đi chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn.

Tôi đi một vòng thăm trận địa. Hơn hai trăm xác chết, mặc áo ba ba đen, quần đùi. Những xác chết đó, gương mặt còn non choẹt, đa số tuổi khoảng 15 đến 20, xác thì nằm vắt vẻo trên bờ kinh, xác thì bị cháy đen, xác thì mất đầu, cũng có xác nằm chết trong hầm. Không biết trong khi họ phơi xác ở đây, thì cha mẹ, anh em, vợ con họ có biết không?

Sau trận đó thì Cẩn được thăng cấp Đại Úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt Tiểu Đoàn 42 BĐQ đi làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 33 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Việc đầu tiên của Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng là xin sư đoàn cho tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan xuất thân trường Thiếu Sinh Quân về chiến đấu cùng với mình. Cẩn đã được thỏa mãn một phần yêu cầu. Tôi hỏi Cẩn:

– Anh đem các cựu TSQ về với mục đích gì?

– Một là để dễ sai. Tất cả bọn TSQ này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng nó, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy. Hai là, truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi, vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả.

Suốt năm 1967, Cẩn với Tiểu Đoàn 1/33 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh Hậu Giang, khi Đại Ngãi, khi Tắc Vân, khi Kiên Hưng, khi Thác Lác, khi Cờ Đỏ. Thời gian này, tôi bắt đầu viết lịch sử tiểu thuyết, nên tôi đọc rất kỹ Lục Thao, Tam Lược, Tôn Ngô binh pháp cùng binh pháp của các danh tướng Đức, nhất là của các tướng Hồng Quân. Tôi dùng kiến thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận đánh của Cẩn từ 1966. Tôi bật ngửa ra rằng, Cẩn không hề đọc, cũng không hề được học tại trường sĩ quan những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy, cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những trận đánh của Cẩn bàng bạc xuất hiện như những lý thuyết trong thư tịch cổ?

Lần cuối cùng tôi gặp Cẩn vào mùa Hè năm 1974 tại Chương Thiện. Tôi hỏi Cẩn:

– Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm tỉnh trưởng. Anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm sư đoàn trưởng không?

– Tôi lặn lội suốt 14 năm qua, gối chưa mỏi nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi. Mình phải biết liêm sỉ chứ. Coi sư đoàn sao được?

– Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm gì?

– Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường Thiếu Sinh Quân hoặc coi các lớp huấn luyện đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi trải qua, nhờ anh viết lại. Bộ sách đó, anh nghĩ nên đặt tên là gì?
– Cẩm nang của các đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng trong chiến tranh chống du kích tại vùng đồng lầy.

– Nhưng liệu Bộ Quốc Phòng có cho phép in hay không?

– Không cho in thì mình cũng cứ thuật, rồi đem giảng dạy, ai cấm được?

Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa tôi và Cẩn. Sau khi miền Nam mất, tôi không được tin tức của Cẩn. Mãi năm 1976, tôi được tin: Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tướng Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng thì Hồ Ngọc Cẩn vẫn tiếp tục chiến đấu. Các đơn vị Cộng Sản tiến vào tiếp thu Tiểu Khu Chương Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Ông bị bắt, đưa về Cần Thơ rồi bị đem ra xử tử.

Khi tôi gặp Cẩn thì tôi chưa khởi công viết lịch sử tiểu thuyết. Thành ra cuộc đời Cẩn, cuộc đời các thiếu sinh quân quanh Cẩn, in vào tâm não tôi rất sâu, rất đẹp. Vì vậy sang năm 1968, khi bắt đầu viết, thì bao giờ tôi cũng khởi đầu bằng thời thơ ấu của những nhân vật chính. Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra trận thì tiến lên hoặc chết, chứ không lùi.

Có rất nhiều người đặt câu hỏi: Giữa tôi và Cẩn như hai thái cực. Cẩn chỉ học đến đệ ngũ, tôi được học ở nhà, ở trường đến trình độ cao nhất. Cẩn là người Nam, tôi là người Bắc. Cẩn theo đạo Chúa, tôi là cư sĩ Phật Giáo. Tôi thì sống trong sách vở, hay đi trên mây, Cẩn thì lăn lộn với thực tế. Tôi không biết uống rượu, Cẩn thì nổi danh tửu lượng tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Tôi thấy người đẹp là chân tay run lẩy bẩy, Cẩn thì dửng dưng. Thế mà khi gặp nhau, chúng tôi thân với nhau ngay. Thân đến độ giãi bày cho nhau tất cả những tâm sự thầm kín nhất, không một người thứ nhì biết được. Tại sao? Cho đến nay, tôi mới trả lời được rằng: Cẩn cũng như những người quanh Cẩn, là những hình bóng thật, rất quen thuộc mà trước kia tôi chỉ thấy trong lịch sử, nay được gặp trong thực tế.

Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai giờ trưa, ngày 30 tháng 4, dù ở bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy, vào nhà thờ đốt nến, đặt hoa dưới tượng Đức Mẹ, và cầu xin cho linh hồn Cẩn được an lành trong vòng tay Người.

Trích trong bài: “Vài nét về một anh hùng: Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn”

của Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sĩ viết tại Paris ngày 30/4/1996.

    Đại tá Hồ Ngọc Cẩn và Phu nhân.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Dòng Sông Cũ


Chúng Tôi Muốn Sống – Vĩnh Noãn

 Bài đọc suy gẫm: Phim lịch sử khá vĩ đại “Chúng Tôi Muốn Sống” của VNCH nổi tiếng một thời vì lột trần được bộ mặt thật của cộng sản Việt Nam, điển hình là cuộc cải cách ruộng đất với chủ trương đầy ác độc, ghê rợn, giết hại hàng trăm ngàn người dân, và cuộc vượt thoát ly kỳ khỏi bức màn sắt. Phim được thực hiện với những chi tiết sống động qua lời kể của Đạo diễn Vĩnh Noãn. Hình ảnh sưu tầm trên net chỉ mang tính cách minh họa.

 Đầu năm 1954, tôi còn hoạt động trong ngành điện ảnh tại Paris cùng với nhóm Les Films de l’Oliviẹr. Nhân dịp có phái đoàn Việt Nam sang hội nghị với Pháp đang ngụ tại khách sạn Lutecia ở Paris, tôi đến thăm để có dịp gặp lại nhiều người quen như bác sĩ Phan Huy Quát, các ông Bùi Diễm, đại tá Lê văn Kim, Nguyễn Quang Nhạ và nhân viên phụ tá.

Công việc điều đình với chính phủ Pháp vẫn còn kéo dài nên bác sĩ Quát, lúc đó là tổng trưởng bộ Quốc Phòng, ngỏ ý muốn mời tôi về Việt Nam để giúp quân đội thực hiện vài cuốn phim dài chống Cộng. Đại tá Lê văn Kim cũng có nhiều liên hệ với nền điện ảnh Pháp nên đã giới thiệu thêm vài chuyên viên khác, như đạo diễn Jean Leduc và Jacques Lang, cùng theo tôi về Saigon để lo làm các loại phim tài liệu ngắn.

Về Việt Nam mới được vài tháng, chưa tổ chức xong việc quay phim và chưa tìm đủ các phương tiện cùng dụng cụ chuyên môn cần thiết, thì được tin quốc trưởng Bảo Đại đã chọn ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng thay thế Hoàng thân Bửu Lộc. Bác sĩ Phan Huy Quát mời tôi lên văn phòng, cho hay là ông sẽ không còn làm tổng trưởng Quốc Phòng trong chính phủ mới, nên hỏi xem ý tôi muốn làm gì trong tương lải. Tôi trình bày là hiện nay tôi đã bắt đầu thảo ra một chuyện phim để phổ biến cho dân chúng hiểu về chế độ Cộng Sản, nhưng tôi cần phải nghiên cứu thêm rất nhiều tài liệu và chi tiết.

Vì ông Quát không còn ở trong chính quyền nên mất đi cơ hội làm phim, tôi xin phép trở lại Pháp để tiếp tục hoạt động trong ngành điện ảnh tại đó.

Máy bay Air France chở tôi về đến Paris đêm 14 tháng 7 cùng năm, vào đúng ngày lễ Độc Lập lớn của Pháp và cũng là ngày sinh nhật của tội. Nhìn thấy thiên hạ ăn mừng và khiêu vũ ngay ở ngoài đường rất nhộn nhịp, tôi cũng cảm thấy vui lây, bớt bực mình vì công việc không thành tại quê nhà.

Tuy nhiên sau đó, ý nguyện thực hiện cuốn phim chống Cộng vẫn đeo đuổi tôi, vì từ lúc còn là sinh viên tại Hà Nội năm 1945, tôi đã nếm mùi tra tấn của Cộng sản lúc bị tụ.  Lý do là tôi đã cùng với nhóm anh em trong Đông Dương Học Xá, không chịu chấp nhận đổi tên của tổ chức Tổng Hội Sinh Viên thành Tổng Hội Sinh Viên Cứu Quốc, vì biết chữ “Cứu Quốc” chỉ là một danh từ trá hình của Cộng Sản.

Khi viết xong bản thảo cho câu chuyện phim, tôi trở lại Saigon vào đầu năm 1955 để tìm cách thực hiện ước vọng của mịnh. Tôi tìm đến ông Bùi Diễm và bác sĩ Phan Huy Quát, lúc đó không còn ở trong chính quyền nữa, nhưng họ là những phần tử quốc gia chống Cộng, lại đang được rảnh rang, nên tôi mong họ có thể hợp tác được.

Cuốn phim tôi muốn thực hiện khá vĩ đại đối với Việt Nam, và sự tốn kém sẽ lên quá cao so sánh với các phim trong nước, Vì vậy cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề nan giải:

– Lo có số tiền chi tiêu cho mọi việc, từ lúc chuẩn bị quay phim cho đến khi hoàn thành, chi phí về quảng cáo và ẩm thực cho đoàn quay phịm

– Tìm kiếm các dụng cụ máy móc về phần chuyên môn, như máy quay phim, máy thâu thanh, máy phát điện, đèn cỡ lớn, và xe cộ để chuyên chở vân vận

– Mướn chuyên viên, tuyển lựa các tài tử đóng phim, và hằng ngàn dân di cư phụ diển

– Vận động sự giúp đỡ của quân đội về việc sử dụng súng đạn, máy bay, xe thiết giáp, các loại xe quân sự, chất nổ dùng trong lúc thực hiện các trận đánh, và việc tổ chức an ninh cho đoàn quay phịm

– Muốn quay loại phim 35 ly cho dúng tiêu chuẩn quốc tế, tiền ngoại tệ cần phải có khá nhiệu Việc mua cùng in rửa phim và làm ráp nối sẽ rất tốn kém, vì tất cả đều phải làm tại ngoại quộc. Việt Nam lúc đó chưa có phim trường và các máy móc dùng cho loại phim cỡ lớn này.

Thực hiện một phim có tánh cách chống Cộng, trước tiên là đi vận động để được sự giúp đỡ của chính quyền và phòng điện ảnh Hoa Kỳ. Về phía Việt Nam thì không có sự khích lệ nào đáng kể, vì có lẽ chính phủ Ngô Đình Diệm đang có nhiều vấn đề quan trọng khác cần làm, nhất là họ còn phải đương đầu với các tổ chức đối lập trong nước vào thời gian đó.

Nhờ hồi trước lúc làm việc tại bộ Quốc Phòng, tôi có quen với ông Charlie Mertz, giám đốc phòng điện ảnh Hoa Kỳ. Lúc trình bày ý định thực hiện cuốn phim dài chống Cộng và mong được sự giúp đỡ, ông Mertz thích thú ngồi nghe tôi kể sơ lược chuyện phim và hứa sẽ sốt sắng tận tình làm mọi việc trong quyền hạn của mình, với điều kiện là cần có một bản chuyện phim loại phân cảnh bằng Anh ngữ (shooting script) để hiểu rõ nhu cầu nào ông có thể trợ giúp được.

Tôi cũng đem mấy vấn đề khó khăn cần giải quyết đã nói trên ra bàn với ông Mẹrtz. Ông ta có ý kiến là sau khi chuyện phim được chấp thuận, tôi cần phải cùng ông đi qua Phi Luật Tân để giải quyết về vấn đề chuyên viên và máy móc cùng phim trường. Theo ý ông, thì nên tìm thêm một hãng phim tại đấy để làm chung (co- production), nếu họ thích chuyện phim này và nhận thấy có ích lợi cho nước họ, vì trong thời kỳ ấy phong trào chống Cộng tại Phi cũng đang bành trượng. Được như vậy thì mọi chi phí, về dụng cụ và chuyên viên hay in rửa phim, đều do Phi Luật Tân đài thọ.

Tôi trở về bàn tính với ông Bùi Diễm là đã thấy ánh sáng ở cuối đường hầm rồi, vì nếu chuyện phim được chấp nhận thì phần Việt Nam chỉ phải lo cho tiền chi tiêu trong thời kỳ quay phim mà thôi, còn lại các vấn đề tốn kém quan trọng về ngoại tệ đều đã có các tổ chức khác chịu.

Chúng tôi thành lập hãng phim Tân Việt Điện Ảnh, trong đó có bốn người: ông Bùi Diễm, bác sĩ Phan Huy Quát, thương gia Nguyễn Hữu Đạo và tôi.  Ba người trên lo vấn đề tài chánh và tôi thì phụ trách phần thực hiện và viết chuyện phịm.

Lúc đó áp dụng theo hiệp ước ký kết tại Genève năm 1954, phong trào di dân chống Cộng từ Bắc vào Nam đang rầm rộ xúc tiến. Tôi chọn Đà Lạt vì có các trại di cư ở quanh vùng đó, và đến ngụ tại khách sạn Langbian để viết phần phân cảnh cho chuyện phịm.

Trong hai tháng, mỗi ngày tôi đều xuống các trại định cư, nghe họ kể lại cảnh tố khổ hay các việc kinh hoàng dã man đã xẩy ra dưới chế độ Cộng sản. Ghi chép các tài liệu đó cho đến chiều tối trở về, tôi lại bổ túc thêm cho chuyện phim thành hấp dẫn hơn, nhưng phải loại bỏ những cảnh quá tàn nhẫn không thể đem lên màn bạc được.

Chuyện phim và phần phân cảnh được hoàn thành xong, tôi liền trở về Saigon để cấp tốc dịch ra tiếng Anh cùng với các anh em Việt Nam làm tại phòng điện ảnh Hoa Kỳ.

Ông Charlie Mertz muốn góp ý kiến là vào cảnh cuối cùng, lúc đại úy Vinh vượt biên và được tàu chiến của hải quân cứu ở ngoài biển, ông đề nghị chiếc tàu đó treo cờ Mỹ! Tôi đã từ chối và nói rằng làm vậy thì như quảng cáo bán “Coca Cola”, sẽ mất giá trị của cuốn phim đối với dân chúng. May thay ông ta không cứng đầu, và đã đồng ý mời tôi cùng đi qua Phi Luật Tân để vận động giải quyết về phần kỹ thuật.

– Ở Manila hơn một tuần lễ, các hãng phim của Phi biết được tin đăng trên báo nên đã liên lạc và đón tiếp tôi rất nồng hậu trong các buổi tiếp tân của họ, cũng như buổi tiệc do đại sứ Cao Thái Bảo tổ chức tại sứ quán Việt Nam, hay hôm gặp gỡ báo chí và các minh tinh điện ảnh Phi do phòng thông tin Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân tổ chức.

Chuyến đi Manila rất thành công, một hãng phim Phi do ông Manuel Conde làm giám đốc nhận lời làm chung (co-production) với Việt Nạm. Chuyên viên và máy móc quay phim do họ đóng góp, còn phần mua và in rửa phim thì được sự trợ giúp của Hoa Kỳ. Khi cuốn phim thực hiện xong họ được có toàn quyền trên thị trường Phi, còn lại tất cả trên thế giới là của Việt Nạm. Phía Phi Luật Tân họ lấy tên cuốn phim là “Fire and Shadow”, vì chuyện được sửa đổi để theo đúng tinh thần dân tộc Phi, thiên nhiều về đạo Ki Tô, và sẽ do ông Conde làm đạo diễn.



Phía Việt Nam thì chọn tên Chúng Tôi Muốn Sống và do tôi phụ trách. Tiện đây, tôi xin trình bày thêm là sau cuộc trưng cầu ý kiến của trên mấy trăm người, phần đông là dân chúng ở tại Saigon đã lựa tên Chúng Tôi Muốn Sống trong số sáu tên phim được đưa ra, như “Gió và Lửa”, “Tình và Máu”, “Sóng Đỏ trên đất lành”, “Giông tố” vân vân.

Trở về Saigon, vấn đề cuối cùng là cần phải có sự trợ giúp của quân đội Việt Nạm. Ông Bùi Diễm lúc đó làm giám đốc sản xuất cho Tân Việt Điện Ảnh, có quen nhiều với đại tá Edward Lansdale, đang làm cố vấn tối cao cho tổng thống Ngô Đình Diệm, nên ông vận động nhờ ẸL nói giúp, vì chính phủ tỏ vẻ thờ ơ với việc thực hiện phim nạy. Có lẽ vì ông Diễm và bác sĩ Quát là Đại Việt, không cùng “phe ta”, mà lại muốn làm điện ảnh chống Cộng để lấy ảnh hưởng trong dân chúng, nên chính phủ Diệm e ngại chẳng.

Tuy vậy sau đó, thiếu tướng Trần Văn Đôn, khi ấy làm tham mưu trưởng quân đội, cho tôi hay là đã chỉ định thiếu tá Nguyễn văn Cư cùng một số sĩ quan đi theo cộng tác với đoàn quay phịm. Mọi nhu cầu cần đến sự yểm trợ của quân đội, thì thiếu tá Cư sẽ liên lạc trực tiếp với bộ Quốc Phòng.

Như vậy, xem như đã giải quyết xong các vấn đề trong giai đoạn vận động và chuẩn bị, bây giờ thì đến lúc phải lo về phần thực hiện cuốn phịm.

Phái đoàn Phi Luật Tân gồm có các tài tử và chuyên viên, tất cả chừng hai mươi ngượ`i. Họ quyết định sẽ đến Saigon trong hai tuần lễ sau, và đem theo các dụng cụ máy móc: camera quay phim là loại Mitchell 35 ly thường dùng trong các phim trường quốc tế, hoàn toàn yên lặng lúc máy chạy, rất cần vì phải lấy âm thanh tại chỗ (direct sound recording). Phần thâu thanh thì dùng máy Ampex với băng cỡ 16 ly chạy cùng tốc độ với camera để tiện cho việc ráp nối sau này. Hồi đó việc thâu lời đối thoại cho ăn khớp (Sỵnc) cùng đúng với lúc tài tử nói thật rất khó làm, chứ không dễ dàng như quay loại video-camera hiện nạy.

Thâu thanh tại chỗ thì cần phải có máy phát điện lớn chạy thật êm, phía Phi Luật Tân không thể đem qua được vì quá nặng nề, nên bên phần Việt Nam phải tự lo liệu lấy.

Quân đội ta có nhiều máy phát điện nhưng động cơ lại rất ồn. Tôi phải giải quyết vấn đề ấy, bằng cách cho hàn thêm mấy ống bô xe hơi liên tiếp sau ống khói của máy phát điện, và khi sửa xong, máy chạy nghe thật rất ệm.

Phía Việt Nam cần phải gấp rút tuyển lựa tài tử cho kịp lúc quay phịm. Đặc biệt là thời đó chưa có tài tử chuyên nghiệp, nên tất cả diễn viên đều đóng phim lần đầu tiên trong đời họ. Người Việt Nam ta rất có khiếu về vấn đề này, ngay như đạo diễn lừng danh trên thế giới là ông Joseph L. Mankiewicz, lúc đến Saigon quay phim The Quiet American (Người Mỹ Trầm Lặng) vào đầu năm 1957, mà tôi làm người cộng tác sản xuất cho ông ta ăssociate-producer), cũng công nhận việc diễn xuất rất tự nhiên của các vai phụ tại đây, nhất là không bao giờ ai liếc trộm vào ống kính quay phim, khi họ đã được báo trước là không nên làm việc đó.

Vai chánh nam, đại úy Vinh do Lê Quỳnh đóng, phần hai vai chánh nữ thì lúc diễn xuất thử, Mai Trâm thích hợp với vai Lan vì nét mặt hiền hậu, và vai nữ cán bộ đanh đá, lại hợp cho Thu Trang hơn.

Còn lại các vai phụ như

– Công tố ủy viên: Nguyễn Long Cương

– Đội trưởng đoàn đấu tố Cộng sản: Nguyễn Đức Tạo

– Ủy viên chính trị: Lê Giạng

– Công an: Trần văn Nhơn, và nhiều vai khác mà tôi không còn nhớ tện

Phần chuyên môn về Quay phim: Emanuel Rojạs

– Âm thanh: Flaviano Vilareạl

– Âm nhạc hòa tấu theo nhạc phẩm của Phạm Duy do Restie Umali điều khiện

Địa điểm được chọn để quay phim là Long Hải và Nha Trang, vì cả hai nơi đều có cảnh giống như trong chuyện phim, và lại là vùng có nhiều trại di cư người Bắc, nên rất tiện cho việc nhờ họ làm phụ diện. Đoàn quay phim gồm có gần 100 người, trong đó, các anh em trong quân đội lo về an ninh đã chiếm mất một phần tư, còn lại là tài tử, chuyên viên, nhân viên giúp việc của Việt và Phi và một số người khá đông trách nhiệm về ẩm thực. Phải dùng đến 10 chiếc xe vận tải lớn của quân đội, mới chuyên chở hết được mọi người và dụng cụ của phim đoàn.

Thời gian quay phim mất gần ba tháng. Mọi người đều hăng say làm việc, không quản ngại đến những trận mưa rào như tát nước vào mặt, hay trời nắng chang chang thêm với sức nóng của các ngọn gió từ bên Lào thổi đến như nung đốt rừng núi, làm cho nhiều diễn viên đã phải núp cạnh các xe vận tải để có chút ít bóng mát. Chỉ có lúc tắm biển vào buổi chiều khi mặt trời lặn, là lúc xả hơi vui vẻ cho mọi người sau một ngày công lao cực nhọc.

Mỗi ngày ai cũng đều phải thức dậy từ lúc mờ sáng để chuẩn bị những việc cần thiết phải làm của mình. Nhóm này thì lo máy móc dụng cụ quay phim, kẻ kia lo nấu nướng đồ ăn cùng nước uống cho mọi ngượi. Diễn viên thì lo phần áo quần cùng hóa trang, nhất là phải học thuộc lòng các câu đối thoại. Đạo diễn và giám đốc thu hình chăm chú cùng nhau bàn tán, về các góc cạnh hay các đoạn phải quay phim trong hôm đó. Kỹ sư âm thanh thì chọn chỗ để máy điện, cần phải đặt máy ấy nằm nơi ngược chiều gió tránh khỏi bị ồn lúc thâu tiếng nói. Mỗi người mỗi việc, sáng nào cũng thật là bận rộn và nhộn nhịp lo cho công tác của mình.

Có rất nhiều chuyện vui, buồn, hồi hộp, lo lắng hay tang tóc đã xẩy ra trong lúc quay phim này. Tôi xin kể lại vài câu chuyện bên lề ở hậu trường mà dân chúng chưa được nghe đến, dĩ nhiên là nên khởi đầu với chuyện vui:

– Trong lúc quay trận đánh phục kích đoàn xe Pháp gần đèo Mo Lang ở phía đông Nha Trang, chúng tôi chỉ tìm có được một kiều dân Pháp còn ở tại vùng đó, nên nhờ anh ta đóng vai người lính Pháp lái chiếc chiến xa dẫn đầu đoàn xẹ. Việc anh ấy phải làm là lúc nghe tiếng mìn nổ thì thò đầu ra khỏi xe và la lớn: “Les Viet-Minh attaquent!” (Việt Minh tấn công!) Rồi sau đó, anh ta phải gục đầu xuống làm như bị trúng đạn, nên ói máu mồm rạ. Đến lúc quay thật, mọi chuyện xẩy ra như đã được dự định, nhưng lúc anh lính Pháp gục đầu xuống chết, thì mồm lại không có tí máu nào chảy rạ. Khi hỏi lý do vì sao thì anh ta nhe răng cười, nói là lúc ngậm chocolat trong miệng giả làm máu, vì ngon quá, nên anh đã nuốt hết mất không còn giọt nào. Trận đánh thực hiện thật quá tốn kém, không thể nào quay lại được vì thiếu một chi tiết nhỏ đó, nên đành phải chịu. 

Ảnh Poster: Krus Na Kawayan tức Chúng Tôi Muốn Sống, ấn bản Phi Luật Tân.

– Buồn là người phụ tá của anh chuyên viên xảo thuật Totoy Torrenta, lúc pha thuốc súng cho trận đánh tại Nha Trang, đã bị cháy phỏng nặng vì làm xẹt lửa trên sân đá tuy dùng cái chày bằng gổ để trộn các chất nộ. Anh ấy đã được chở cấp tốc về Manila để điều trị.

– Hồi hộp trong khi thực hiện trận phục kích, là lúc đem cả đoàn xe thiết giáp lên vùng rừng núi của đèo Mo Lang (dường mòn Hồ Chí Minh). Con đường nhỏ quanh co ở trên đèo ấy, có một cái cầu sắt với tấm bảng đề là sức lượng của cầu chỉ chịu nổi tối đa là 15 tấn. Chiếc chiến xa dẫn đầu của đoàn quay phim thì nặng đến 25 tấn! Nếu lái qua mà cầu sập thì cả đoàn quay phim sẽ bị kẹt lại trên núi này, nhất là lúc đêm xuống thì rất nguy hiểm vì đây là vùng có Việt Cộng. Quyết định cuối cùng là vẫn phải liều cho lái xe qua cầu. Tim tôi đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài lồng ngực khi nhìn chiếc xe tank to lớn, xích sắt kêu ken két, chậm chạp bò từ từ qua chiếc cầu nhỏ bé ấy.

– Hồi hộp thêm là lúc chuẩn bị quay cảnh phi cơ Pháp bay là xuống bắn đoàn dân di cự. Tôi đánh điện về Saigon xin gởi ra Nha Trang hai chiếc phi cơ quân sự loại thường dùng để bắn phá hay ném bọm. Lúc phi cơ đến phi trường, tôi lên xem ở phía trong thì sợ hết hồn, vì họ chất đầy bom thật loại 100 kí! Tôi yêu cầu cho cất tất cả bom ấy vào kho ngay vì nguy hiểm cho việc quay phịm. Anh phi công nhờ tôi phải chỉ rõ những việc cần phải làm, nhất là định bay thấp xuống chỗ nào và xa mặt đất bao nhiêu thưởc. Tôi ngồi cạnh người phi công để bay thử đến địa điểm quay phịm. Tôi chưa bao giờ đi loại phi cơ quân sự nhào lộn kiểu này, nên bị choáng váng buồn nôn nói không ra lời! Thế mà đến lúc quay thật thì anh phi công tuổi trẻ tài cao này, lại biểu diễn phi cơ bay xuống quá thấp gần mặt đất cho thêm phần hào hứng, đến nỗi chiếc dù to che ánh mặt trời của máy quay phim, bị gió của động cơ máy bay cuốn đi mất!

– Hồi hộp hơn nữa là lúc người yêu của tôi là nữ tài tử Mai Trâm, diễn xuất cảnh nữ cán bộ Lan cướp súng để bắn mấy người cộng sản. Cây súng đó là loại súng máy thời Pháp loặi FM), nặng 30 kí và sức đạn giật lại vào tay rất mạnh. Với thân hình nhỏ bé, lại phải ôm cây súng quá nặng để chạy ra bãi cỏ bắn máy bay Pháp, rồi quay ngược lại bắn mấy người cán bộ, nên lúc quay xong màn đó, tay Mai Trâm đã phải băng bó mất mấy ngày vì ngón tay bóp cò súng bị rách toé máu ra!

– Lo lắng và sợ nhất là trong khi quay trận đánh phục kích ở trên đẹo.  Số chất nổ và đạn dược sử dụng hơn mười ngàn kí, số đạn xảo thuật thì rất ít vì quá tốn kém để chế tạo, còn lại đều là dùng đạn thật. Nếu có sự rủi ro nào xẩy ra, thì trách nhiệm sẽ quá nặng nề cho phim đoạ`n.

Ngay như lúc quay màn tiêu hủy quân cụ địch quân, phi đạn súng không giật băzooka) cũng là loại thật, nên chiếc xe bị bắn trúng đã nổ tung lên tan nát!

– Một việc tang tóc không ngờ đã xẩy ra trong lúc chúng tôi đang quay phim tại Long Hải. Đoàn quay phim lúc đó đang chuẩn bị nghỉ ăn cơm trưa, thì được tin là chiếc xe ẩm thực, lúc tài xế lái qua vùng núi đá, đã bị lật rơi xuống gần bãi cát và kết quả là có vài người bị thương cùng một người bị xe đè chết. Tôi vội vã phóng xe đến chỗ xẩy ra tai nạn, thì mới thấy người bị xe đè chết chính là anh bạn thân của tôi tên là Lê văn Phấn, hoạt động trong ngành điện ảnh, mới từ Paris trở về. Anh ta được tin tôi đang làm phim nên đến Long Hải, xin cùng đi nhờ xe ẩm thực, để ra thặm. Thật là một sự bất hạnh đau đớn mà bao năm qua, hình ảnh người bạn trẻ đẹp trai quý mến này, vẫn còn ghi nhớ mãi trong ký ức tội.

Quay hết xong cuốn phim và gửi qua Manila để in và rửa thì lại gặp một vấn đề khác là việc nối ráp phim: không một ai ở phim trường Phi Luật Tân hiểu tiếng Việt và phần phim về âm thanh họ đã in ra, để lộn xộn không biết đâu mà ráp nối với phần có hình ạnh. Thông thường thì phần ráp nối sơ bộ được làm xong thì đạo diễn mới xem lại và sửa đổi cho đúng ý mịnh. Trong tình thế này, tôi lại phải bay qua Manila để lo cho toàn diện phần ráp nối cùng âm thạnh. Chuyến qua Phi Luật Tân này có thêm nhà văn Nguyễn Tú cùng đi để giúp về phần đối thoại của phịm. Như thế lại mất thêm gần hai tháng nữa thì cuốn phim mới được hoàn thành để đem ra chiếu ở các rạp.

Ngày đầu tiên, phim Chúng Tôi Muốn Sống ra mắt ở Saigon tại rạp Đại Nạm. Dân chúng kéo nhau đi xem đông quá nên thiếu chỗ ngội. Lúc chiếu đến cảnh tố khổ, bỗng nhiên rất nhiều người trong rạp bị quá xúc động, cùng nhau đứng dậy, hô to lên nhiều lần “Đả đảo! Đả đảo Cộng Sản!” Thật là một sự bất ngờ thú vị, và tinh thần chống Cộng đó vẫn còn được kéo dài cho đến ngày hôm nạy. Trên phương diện chính trị và lịch sử, mục đích của cuốn phim này là để nói lên cho dân chúng hiểu, lý thuyết mà đảng Cộng Sản đã đem ra áp dụng một cách cuồng tín tại Việt Nam, thật quá tàn bạo và độc ác đối với con dân trong nước vì đã sát hại bao nhiêu đồng bào vô tội.

Chuyện phim phơi bày giai đoạn đẫm máu của chính sách cải cách điền địa và giai cấp đấu tranh, đã chứng minh là không thành phần nào trong xã hội Việt Nam có thể sống nổi với chính sách này. Từ giai cấp trí thức, quân nhân tham gia kháng chiến nhưng liên hệ với thành phần địa chủ, cho đến các cán bộ có tinh thần quốc gia nhưng không mù quáng theo chủ nghĩa Cộng Sản Quốc Tế, và ngay cả đến giai cấp bần cố nông đã được họ giải phóng, tất cả mọi người, đều bị lợi dụng kiểu vắt chanh bỏ vỏ, bị khủng bố hay thủ tiêu, nếu không triệt để chỉ trung thành phụng sự cho Đảng mà thội. Chính sách cải cách điền địa bắt đầu ở ngoài Bắc từ năm 1953 cho đến 1957, họ đã giết hại mấy trăm ngàn nhân mạng một cách oan uổng và vô ích.

Vì vậy nên sau đấy, chính ông Hồ Chí Minh cũng đã công nhận sự sai lầm tai hại ấy, nên ra lệnh bãi bỏ chính sách đấu tố địa chủ và cách chức tổng bí thư Trường Chinh, người chỉ huy phong trào đó. Phim Chúng Tôi Muốn Sống ra đời vào năm 1956, có thể một phần nào đã ảnh hưởng đến quyết định này.

Theo sự tìm hiểu của tôi sau này, thì việc chấm dứt phong trào cải cách điền địa, chỉ vì đảng Cộng Sản đã nhận thấy họ đang thi hành một chiến lược sai lầm vì nước ta không có giai cấp thợ thuyền vô sản như ở bên Ngạ. Họ áp dụng lý thuyết giai cấp đấu tranh một cách đần độn và quá khích tại Việt Nam, một nước sống nhờ nông nghiệp, mà lại đem ra đấu tố giai cấp địa chủ và phú nông, để gây ra sự căm thù và oán hận trong giới nông dân, thì họ làm sao còn có điểm tựa ở chốn thôn quê cho sự tồn tại của quân du kịch. Vào cuối năm 1954, cả triệu người rời bỏ miền Bắc vào Nam chống Cộng Sản đã chứng minh việc đó .

Nói tóm lại, phim Chúng Tôi Muốn Sống đã đi vào lịch sử của điện ảnh Việt Nạm Tuy không thành công lắm trên phương diện tài chánh vì thị trường Việt Nam quá nhỏ hẹp, mặc dù phần đông người Việt thời đó đều muavé đi xem phim nậ`y. Hơn nữa, lại là loại phim có tánh cách tuyên truyền nên không chiếu thương mại ở ngoại quốc được, nhưng về mục đích chống Cộng thì lại thành đạt vẻ vang khắp nở.

Cuốn phim đó đã được giải thưởng Chính Trị của đại hội Điện Ảnh Đông Nam Á tại Seoul Đại Hàn năm 1967, và lại là cuốn phim được chọn để trình chiếu trong đại hội Chống Cộng Thế Giới ở Dallas Texas cho các phái đoàn của một trăm nước đến xem vào ngày 12-11-1985, dưới sự chủ tọa của trung tướng chủ tịch John K. Singlaụb.

Sau đó, phim ấy còn được chiếu tại Tòa Bạch Ốc thời tổng thống Reagan, cho các nhóm sinh viên học ngành chính trị, do ông Rudy Beserra, giám đốc phòng Liên Lạc Dân Sự tổ chức .

Đây là một cuốn phim độc nhất được sản xuất từ thời đó cho đến bây giờ, đã giúp cho nhiều người hiểu rõ thêm về một chế độ bạo tàn mà cho đến nay, bao người bỏ nước ra đi tìm tự do, vẫn còn thấy thấm thía và đau lòng.

Chúng ta nên nhìn Cộng Sản như đám mây đen bay qua, và Tự Do thì như ánh mặt trời cần thiết cho muôn loại. Thế hệ trẻ của Việt Nam ở trong và ngoài nước, mới lớn lên trong vài thập niên qua, phần lớn đều không hiểu Cộng Sản là gì, nhưng đâu có kẻ nào muốn sống dưới đám mây đen tối, vì ai cũng thích thoải mái vẫy vùng tự do dưới ánh nắng ấm áp của mặt trời.

Mây đen bay qua rồi trời lại sáng, đó là định luật tự nhiên của tạo hóa.

Đạo diễn Vĩnh Noãn.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links:

https://vietmania.blogspot.com/2008/03/

Chúng Tôi Muốn Sống (We want to live) You tube.
https://www.youtube.com/watch?v=8c6r6RqtkkQ


https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%BAng_t%C3%B4i_mu%E1%BB%91n_s%E1%BB%91ng#H%E1%BB%A3p_t%C3%A1c


Đại Thanh Trừng – Trúc Giang MN

Bài đọc suy gẫm: Đại Thanh Trừng nói về Những cuộc thanh trừng đẫm máu trong các đảng công sản trong thế kỷ 20, tác giả Trúc Giang MN. Hình ảnh có tính minh họa.

1*. Mở bài

Mục đích tối hậu của người làm chính trị là nắm lấy quyền lực. Ở những nước dân chủ thì quyền lực được nhân dân trao cho một cách hợp pháp, có giới hạn bằng những nhiệm kỳ, qua những cuộc bầu cử công bằng. Đó là sinh hoạt của xã hội văn minh.

Trái lại, bọn lưu manh thì dùng thủ đoạn và bạo lực để cướp chính quyền. Khi đã nắm được chính quyền rồi, thì dùng những thủ đoạn gian manh, lừa bịp để bảo vệ và duy trì quyền lực.

Mao Trạch Đông đã nói: “Súng đẻ ra chính quyền”.

Lịch sử của các đảng Cộng sản là lịch sử của những cuộc thanh trừng dã man, tàn bạo, điển hình là đảng CS Liên Xô, Trung Cộng và cả đảng CSVN nữa.

Tại sao các đồng chí lại phải thanh trừng lẫn nhau?

Lý do giản dị là, các đảng Cộng Sản (CS) là những tổ chức độc tài, không những độc tài với nhân dân, mà còn độc tài trong nội bộ đảng nữa. Không có dân chủ thì sinh ra tranh chấp. Tranh chấp sinh ra bè phái, phe nhóm. Sức mạnh là yếu tố chiến thắng trong mọi tranh chấp. Dùng sức mạnh để cai trị.

Vì nạn bè phái, phe nhóm, cho nên những cuộc thanh trừng thường kéo theo rất nhiều người từ trung ương đến địa phương, và cuộc thanh trừng được tổ chức bằng những chiến dịch hoặc được gọi là cuộc cách mạng.

Triệt hạ đối thủ chính trị bằng nhiều hình thức như đấu tố, bắt bớ giam cầm, ám sát, thủ tiêu, cô lập, quản chế…

2* Cuộc thanh trừng trong đảng Cộng Sản Liên Xô

2.1. Diễn tiến Đại Thanh Trừng

https://encrypted-tbn0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSeKZTJwHDcDdfGu7lmRjNj4F37fLbKB1vTUFBXQ4VI2wepk_dm
https://encrypted-tbn0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcTmbMnZVg0IFyrnVzk4U9_o2LfIo6Gq1JCBZBFGw8zcVwkY61Er

Đại Thanh Trừng là một chiến dịch thanh trừng đẫm máu diễn ra ở Liên Xô dưới sự chỉ đạo của Joseph Stalin vào thập niên 1930. Đó là một cuộc thanh trừng đẫm máu, tàn sát những người chống đối tư tưởng và chế độ của Stalin. Nạn nhân là những đảng viên cao cấp trong đảng Bolshevik (Đảng Cộng Sản Liên Xô). Nổi tiếng nhất là Leon Trotsky, bị tống ra khỏi đảng năm 1927, bị đày tới Kazakhstan năm 1928 và sau đó bị trục xuất ra khỏi Liên Xô năm 1929. Sau cùng, Stalin cho người ám sát Trotsky tại Mexico năm 1940.

Stalin đã hủy hoại về mặt tinh thần và thể xác những đối thủ chính trị, ngay cả những người từng là thân cận. Có đến hàng triệu người bị giam giữ trong các trại lao động cưỡng bách (Gulag), bị giết, như con trai của Trotsky là Lev Sedov.

https://encrypted-tbn2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQuz-lRqHhvgbI1dCIhvfqsOB60ZMmgbOL1DPpKYfxTcVVbwET4
https://encrypted-tbn0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQzm4tnkIlDVldzaHiXd4agOswbUT7H20EqGV84X9qSi_04SjBzRQ
Gulag- Lịch sử trại cải tạo lao động Xôviết- Phần 2 | Nghiên Cứu Lịch Sử

Trại lao động khổ sai Gulag

Hai năm 1936, 1937 là thời gian kinh hoàng nhất đã bao trùm trên Liên Xô, gọi là “Nỗi khiếp sợ vĩ đại”.

Chính tay Stalin đã ký 40,000 giấy cho phép xử bắn những người tình nghi là đối thủ chính trị của ông ta. Ngoài ra, hàng loạt người bị bắt giữ, tra tấn và hành quyết mà không cần toà án.

Theo tài liêu được giải mật, chỉ riêng 2 năm 1937, 1938 đã có 681,692 người bị xử bắn. Các nhà sử học cho rằng con số nầy đã bị nhà nước Liên Xô giảm xuống. Thật ra, con số thật sự khoảng 1,548,367 người bị xử bắn. Tính ra, trung bình có hơn 1,000 người bị giết mỗi ngày.

Hàng triệu người được chuyển tới những trại lao động cưỡng bách.

Trong các cuộc điều tra của Bộ An Ninh thì có:

– 1,710,000 người bị bắt giữ.

– Có ít nhất là 2,000,000 người bị kết vào những tội dân sự.

2.2. Tới lượt Joseph Stalin bị thanh trừng

Tên Nga là Iosif Vissarionovich Stalin, sinh ngày 18-12-1878. Quân hàm Đại nguyên soái, Tổng tư lịnh Quân Đội Liên Xô.

Ngày 1-3-1953, sau khi ăn tối với Bộ trưởng Nội vụ là Beria (Giám đốc KGB) và 3 ứng viên có khả năng làm thủ tướng tương lai, là Georgi M. Malenkov, Nikolai A. Bulganin và Nikita S. Khrushchev, ở Moskva, thì Stalin bị ngã quỵ trong phòng rồi nằm liệt giường. Đám cận vệ lấy làm lạ là không thấy ông thức dậy vào buổi sáng hôm sau, nhưng họ có lịnh của Beria là không được quấy rầy Stalin, cho nên đến tối hôm đó, mới phát hiện Stalin đã chết.

Có nguồn tin cho rằng Beria đã đầu độc Stalin để chiếm đoạt chức vụ. Và Beria là người thay thế Stalin liền ngay sau đó.

Stalin được tuyên bố là đã qua đời vào ngày 5-3-1953 (74 tuổi). Thi hài được giữ trong Lăng Lênin cho mãi tới ngày 31-10-1961 thì mới bị mang ra khỏi Lăng và chôn bên cạnh tường của Điện Kremlin.

2.3. Beria, tên đao phủ của Stalin

http://i50.tinypic.com/22z28n.jpg
https://encrypted-tbn0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcTqeubi2IA7-j1ShwbsGY-nIm--0UxhjX0141ElS0yDFKFRtjoA2g

Lavrentiy Pavlovich Beria

Lavrentiy Pavlovich Beria (29-3-1899 – 23-12-1953) là đại tướng 4 sao, trùm mật vụ KGB, tên đồ tể thi hành những vụ bắt bớ giam cầm, ám sát và thủ tiêu những đối thủ chính trị của Stalin.

15 thành viên của chính quyền Bolshevik đầu tiên, ngoại trừ Stalin, thì 14 người còn lại đã bị Beria xử bắn 10 người, và thủ tiêu 4 người. Beria cũng ra lịnh cho Ramon Mercader ám sát Trotsky tại Mexico ngày 20-8-1940.

Beria tiến hành thanh trừng trong quân đội.

– 3 trong 5 Nguyên soái bị tử hình.

– 3 trong 5 Tổng tư lịnh Quân Đoàn bị tử hình.

– 10 Phó tổng tư lịnh QĐ bị tử hình

– 57 trong 85 Tư lịnh Quân đoàn bị tử hình

– 110 trong 195 tư lịnh sư đoàn bị tử hình.

Beria, Giám đốc KGB, có thể bắt giữ và giết chết bất cứ ai, thường bắt gái đẹp ngoài phố đưa về văn phòng hãm hiếp.

Sau khi Stalin chết, Beria lên thay thế nhưng liền sau đó bị nhóm của Nikita Khrushchev, gồm Molotov và Malenkov bắt giam cùng với bè đảng hàng chục người.

Một toà án đặc biệt do nguyên soái Ivan Konev lãnh đạo, đã bí mật xét xử từ ngày 16 đến 23-12-1953. Khi quyết định của toà án đưa ra thì Beria đã bị xử bắn tại phòng giam của cơ quan Phòng không. Có nghĩa là, Beria đã bị giết chết trước khi toà án được thành lập.

Stalin đã tạo ra chính sách Tôn sùng cá nhân để tự tôn sùng mình. Nhiều nhà báo cho rằng Stalin tàn bạo hơn Hitler, ở chỗ Stalin tàn sát đồng bào của hắn bằng chính sách khủng bố nhà nước.

2.4. Đảng Cộng Sản Việt Nam “nâng bi” Stalin

Stalin là tên đồ tể của đảng CS Liên Xô (Bolshevik). Các khuôn mẫu về tàn sát đồng bào của Stalin đã được thi hành rập khuôn bởi những tên đồ tễ như Mao Trạch Đông, Pol Pot và cả Hồ Chí Minh nữa.

Sự thật còn chứng cớ ràng ràng không thể chối cãi được.

Tại Đại Hội II ở Việt Bắc vào tháng 2 năm 1951, Hồ Chí Minh lên tiếng hỏi: “Các cô các chú có biết vì sao ta đổi tên đảng Lao Động thành đảng Cộng Sản không?”. Cả hội trường đồng thanh đáp vang “Dạ không ạ!” Ông Hồ nghiêm nghị nói: “Bác đã xin ý kiến các đồng chí Stalin và Mao Trạch Đông rồi. Các cô các chú nên biết rằng, ai đó có thể sai, chứ hai vị lãnh tụ nầy của chúng ta không bao giờ phạm sai lầm, bác có thể bảo đảm chắc chắn như thế”. (Hồ Chí Minh)

Bức thơ Hồ Chí Minh gởi cho Stalin

Đồng chí I.V. Stalin thân  mến

Tôi gửi đồng chí chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam. Dự án chương trình do tôi soạn thảo, với sự hỗ trợ của đồng chí Liu Shao-qi và [đại sứ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên Xô từ 1949-1951 Wang Jiaxang].

Mong đồng chí xem xét và cho chỉ thị về vấn đề này.

Gửi đồng chí lời chào cộng sản.

Hồ Chí Minh

31/10/1952

Hồ Chí Minh xin chỉ thị của tên đồ tể Stalin về việc giết đồng bào trong Cải Cách Ruông Đất.

Tố Hữu ca ngợi Stalin như sau:

https://encrypted-tbn1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRtHbGyLe5SV-sk2wswrsDmfxfqjOsdrA66JmSicCdCPtep5QFO

Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!

Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ

Cho ruộng lúa tốt thuế mau xong

Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt

….

Bữa trước mẹ cho con xem ảnh

Ông Xít ta lin bên cạnh nhi đồng

Áo ông “thấm đỏ máu hồng” (Áo ông trắng giữa mây hồng)

Mắt ông hiền hậu, miệng ông mĩm cười.

…….

Ông Xit ta lin! ông Xít ta lin!

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười!” (Tố Hữu)

Thật là nâng bi trâng tráo quá cở thợ mộc. Nâng bi tập thể, nâng bi có kế hoạch. Nâng bi tội ác! Vậy ai là tay sai đế quốc đây?

Ngày 30-10-2009, Tổng thống Nga Dmitry Atolyevich Medvedev đã viết trên trang Blog của ông như sau:

“Hàng triệu người đã chết vì khủng bố do những cáo buộc dối trá. Không có sự phát triển nào gọi là thành công, bằng cái giá của hàng triệu sinh mạng của đồng bào mình. Không gì có thể đặt trên sự sống của con người cả. Hành động giết hàng loạt nhân dân mình của Stalin, không có lời giải thích nào thoả đáng cả”.

Trong một bài diễn văn có tên là “Bài diễn văn bí mật” được đọc vào lúc nửa đêm ngày 5-3-1956, Khrushchev đã tố cáo tội ác của Stalin: Tôn sùng cá nhân, vi phạm nội quy đảng về lãnh đạo tập thể, là một kẻ sát nhân và tra tấn (Murderer, Torture), chụp mủ giết hại đảng viên lão thành Bolshevik.

Kết quả, hạ bệ Stalin. Mang xác Stalin ra khỏi Lăng Lênin.

Hari Ini dalam Sejarah: Jasad Stalin Dipindahkan dari Makam Lenin Halaman  all - Kompas.com
Pho tượng đồng khổng lồ nhà độc tài Stalin với chiều cao 18m bị nhân dân Hungary lật đổ trong cuộc cách mạng dân chủ mùa thu năm 1956. Budapest, ngày 23-10-1956 - Ảnh tư liệu

3*. Thanh trừng trong đảng Cộng sản Trung Quốc

MAO TRẠCH ĐÔNG – Vạch Trần 7 Tội Lỗi Lớn Nhất Lịch Sử Trung Quốc Sau 39  Ngày Ông Mất - YouTube

3.1. Mao Trạch Đông xung đột với Lưu Thiếu Kỳ

Liệu Rằng MAO Chủ Tịch Có Phải Là Người Đứng Sau Tiễn Lưu Thiếu Kỳ Về Trời?  - YouTube
Lưu Thiếu Kỳ – Phan Ba's Blog

Lưu Thiếu Kỳ

Thất bại của “Đai Nhảy Vọt”

Mao Trạch Đông muốn nhảy từ nông nghiệp lạc hậu thẳng lên công nghiệp để trở thành một siêu cường quốc giàu nhất, mạnh nhất thế giới trong vòng 10 năm.

Sáng kiến xây dựng lò cao luyện thép ở sân nhà của nông dân. Thế là đã có trên một triệu lò cao được xây dựng.

Phát động chiến dịch thi đua đi tìm “quặng”. Già trẻ bé lớn đều phải tham gia. Đinh vít, dao búa, bản lề, cuốc xẻng và ngay cả kẹp tóc, kim khâu cũng bị thu nhặt đưa vào lò.

Khẩu hiệu ” một cục sắt là một tên đế quốc bị tiêu diệt”. Nông dân bỏ mùa màng, hoa màu không ai gặt, vào thi đua luyện thép.

Thiếu than đốt lò. Cột nhà, mái rạ, bàn ghế, cây cối trong vườn, ngoài rừng ra tro hết.

Thu được một triệu tấn kim loại, nhưng phân nửa là vô dụng.

Thất bại là do cái tối tâm dốt nát của một nông dân thất học Mao Trạch Đông mà ra.

Bành Đức Hoài lớn tiếng chỉ trích. Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình thì làm ngược lại những nguyên tắc của Mao. Thế là mâu thuẩn phát sinh, đưa đến thanh trừng.

Lưu Thiếu Kỳ thì bị loại trừ ra khỏi đảng, bỏ tù và hành hạ cho đến chết. Vợ của Lưu Thiếu Kỳ là Vương Quang Mỹ, bị Giang Thanh sai Hồng Vệ Binh đem ra đấu tố ngoài đường phố.

Buộc Vương phải mặc váy dơ bẩn, cổ mang vòng hạt ngọc giả làm bằng nhựa, to bằng quả bóng bàn. Bọn sinh viên Hồng Vệ Binh đánh đập, đá, bắt phải quỳ, cúi đầu xuống, nhưng Vương vẫn ngẩng đầu lên và đứng dậy.

Mao Trạch Đông dở trò độc ác, tách riêng vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ (LTK) ra mỗi người một nơi để đấu tố, tránh trường hợp Lưu phát biểu, tố cáo tội ác của Mao trước công chúng.

Hàng trăm người liên hệ xa gần với vợ chồng LTK đều bị bắt giữ, tra tấn, đe dọa, mớm cung, bịa chuyện để bắt tội LTK.

Vương Quang Mỹ, vợ của LTK bị giam 12 năm và sau đó bà chết lặng lẽ ngày 13-10-2006.

cif7x6-20161001-bi-kich-cuoi-doi-cua-tuong-banh-duc-hoai-nguoi-dam-lam-phat-y-mao-trach-dong
Bành Đức Hoài – Wikipedia tiếng Việt

Bành Đức Hoài

Bành Đức Hoài cũng vậy, bị giam cho đến chết trong tù năm 1976. Số của Bành Đức Hoài (BĐH) rất bi đát. Bị quản chế ở vùng núi Tứ Xuyên năm 1957. Năm 1961 được cho về thăm quê nhà ở Hồ Nam. Năm 1966, Mao sai một viên tướng đi giải BĐH về Bắc Kinh. Viên tướng cảm phục và xin tha tội cho Bành, thì bị Mao bỏ tù luôn.

Mao cho thuộc hạ, hành hạ Bành Đức Hoài một cách tàn nhẫn. Đánh đập bằng gậy, mang giày da đá và đạp làm cho Bành bị gãy 2 xương sườn, chết đi sống lại. Bị hỏi cung 260 lần để tìm người cùng phe nhóm. BĐH ở tù 15 năm, chết được chôn dưới một bí danh. Sau khi Mao chết, ngày chết của BĐH mới được các cháu chắt biết ngày làm giỗ. Bành Đức Hoài chết chỉ vì dám phê bình Mao Trạch Đông.

3.2. Mao Trạch Đông giết Lâm Bưu

Lâm Bưu không biết giữ trái tim phụ nữ - VietNamNet

Lâm Bưu và vợ

Lâm Bưu là thuộc cấp của Bành Đức Hoài, lừa thầy phản bạn, được Mao cho Lâm Bưu thay thế BĐH ở chức vụ Bộ trưởng Quốc Phòng, rồi làm Phó chủ tịch đảng, là nhân vật số hai, và được chọn làm người kế vị Mao. Lâm Bưu là “Kiến trúc sư” của cuộc Cách mạng Văn hoá.

Mao còn cho vợ của Lâm Bưu (LB) vào Bộ Chính Trị. Bà nầy không có tài, mà còn nổi tiếng là đa dâm. Ở Nga, là bồ bịch với nhiều sĩ quan Nga, về nước thì quan hệ tình dục buông thả, vì Lâm Bưu bất lực, tạng yếu, sợ nước, sợ gió và tiếng động. Mật vụ của Mao còn ghi âm những cuộc trao đổi tình ái mùi mẫn trên điện thoại với viên Tổng tham mưu trưởng họ Hoàng.

Lòng tham quyền lực của Lâm Bưu không có giới hạn. LB muốn nắm lấy cái ghế Chủ tịch nước, thay thế Lưu Thiếu Kỳ. Trái lại, Mao Trạch Đông thì muốn bãi bỏ chức vụ đó, vì muốn trong nước chỉ có một chủ tịch, là chủ tịch đảng của Mao mà thôi.

Âm mưu bị phát hiện. Mao là người nham hiểm, ra tay triệt hạ những thủ hạ thân cận của LB. LB biết không chống lại nổi Mao, cho nên có ý định đưa vợ con chạy trốn.

Kế hoạch đã vạch ra nhưng chưa biết sẽ chạy trốn ở đâu, Hồng Kông, Nga, hay Đài Loan. Lâm Bưu, vợ là Diệp Quần và con trai là Lâm Lập Quả, có bí danh là Hổ.

Lâm Lập Quả đã thiết lập một tổ chức bí mật trong Bộ Tham mưu Không quân. Tổ chức gián điệp nầy bao gồm nhiều đơn vị, với những mật danh như “Hạm Đội Liên Hợp”, “Nhóm Nhỏ Thượng Hải”, “Tiểu Đoàn Hướng Dẫn”, hoạt động bí mật nhằm cướp đoạt quyền hành từ tay Mao Trạch Đông.

Lâm Lập Quả âm mưu ám sát Mao nhưng không thực hiện được.

Một sai lầm lớn của Hổ là viết thơ cho chị là Lâm Lập Hành, (Còn có tên là Lâm Đậu Đậu) bảo về nhà gấp để sáng sớm hôm sau cả nhà lên đường chạy trốn.

Nhưng người chị ruột nầy là người mê muội, bị nhồi sọ, và là 1 người rất tích cực trong Cách mạng Văn Hoá, cho rằng chạy ra nước ngoài là một hành vi phản bội tổ quốc, cho nên đã mật báo với lực lượng bảo vệ. Tin tức nầy được thông báo ngay cho Chu Ân Lai, và Chu ra lịnh kiểm soát vị trí của tất cả những phi cơ, nhất là chiếc Trident mà Lâm Bưu thường dùng.

Lâm Lập Quả (Hổ) được bạn bè báo tin về lịnh kiểm soát của Chu Ân Lai, cho nên phải chạy trốn ngay.

Lúc 23 giờ 50 ngày 13-9-1971, xe chở gia đình Lâm Bưu vào sân bay, nhưng xe không dừng ở trạm kiểm soát, mà chạy vượt qua cổng, làm cho viên quản lý thường đưa LB ra phi trường, biết rằng có việc chạy trốn, nên hô hoán lên, và nhảy ra khỏi xe. Có vài tiếng súng nổ.

Chiếc Trident đang đổ xăng mới có 12 tấn rưởi, nhưng phải cất cánh ngay. Phi hành đoàn 9 người nhưng chỉ còn có 4. Lại thêm một người bạn của Hổ trên chuyến bay.

2 giờ sau, phi cơ đến Ngoại Mông, trên đường qua Liên Xô, thì kim báo nhiên liệu sắp hết và bị nổ tung lúc 2 giờ 30 ngày 13-9-1971. Không ai sống sót. Nguồn tin cho rằng phi cơ bị hoả tiển bắn hạ.

3.3. Mao Trạch Đông hạ bệ Đặng Tiểu Bình

Đặng Tiểu Bình trong CT Biên giới 1979: "Việt Nam là c.ô.n đồ, phải dạy cho  Việt Nam bài học”

Năm 1966.

Đặng Tiểu Bình (ĐTB) theo phe Lưu Thiếu Kỳ. Trong Cách mạng Văn Hoá, ĐTB bị cách hết các chức vụ. Từ năm 1969 đến 1972, vợ chồng ĐTB bị đưa về quản chế ở Giang Tây. Con cái tất cả đều bị đưa đi trại cải tạo.

Năm 1973.

Ngày 20-3-1973, ĐTB được phục hồi công tác, trở về Trung Nam Hải (Bắc Kinh). Giữ chức Phó chủ tịch đảng, phó thủ tướng cho Chu Ân Lai vì Chu Ân Lai làm ăn bết bát quá về kinh tế.

Năm 1976.

Sau khi Chu Ân Lai mất, Mao Trạch Đông lại cách chức ĐTB, chỉ còn danh hiệu đảng viên, và còn hộ khẩu ở Bắc Kinh. Bị quản chế 3 tháng.

Tháng 6 năm 1976

Mao Trạch Đông chết ngày 9-9-1976.

Sau khi “Bè Lũ Bốn Tên” bị lật đổ, bốn tên gồm: Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diệu Văn Nguyên và Vương Hồng Vân. Bè lũ 4 tên chủ trương và thực hiện cuộc Cách mạng Văn hóa.

Đặng Tiểu Bình lại được phục hồi chức vụ.

Cách Mạng Văn Hoá Vô Sản đã tàn sát gần 10 triệu người, chỉ là để thanh trừng phe nhóm Lưu Thiếu Kỳ, sau khi Mao Trạch Đông bị mất uy tín do thất bại của Bước Đại Nhảy Vọt.

Lưu Thiếu Kỳ đã yêu cầu Mao hãy chấm dứt cuộc CMVH, đừng trừng phạt ai nữa, nếu cần, thì hãy trừng phạt Lưu nầy mà thôi.

Qua cuộc Cách Mạng Văn Hoá, Mao Trạch Đông đã đạt được mục đích là cũng cố và duy trì quyền lực.

Nhìn lại sự kiện bi thảm nầy, không có một tí gì gọi là cách mạng cả, mà cực kỳ phản văn hoá, vô nhân đạo, và còn đày đoạ đến tận cùng giai cấp nghèo khổ, vô sản.

Đối với người Việt Nam, thì hầu như nhà nào ở miền Bắc cũng phải trao hình của Mao Trạch Đông và Stalin cả. Biết bao nhiêu bài thơ ca ngợi Mao của Tố Hữu, Hoàng Trung Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư…nào là: Mao Trạch Đông là mặt trời, là cứu tinh, là ngôi sao sáng nhất, là cây đại thọ, là ngọn hải đăng, là Ông hiền từ, là Bác Nhân ái, là vị lãnh tụ anh minh…

Những lời của Mao được xem là chân lý vĩnh cữu.

4* Những vụ thanh trừng trong đảng Cộng Sản Việt Nam

Hồ Chí Minh “đi dây”, giữ thăng bằng đối với hai nước Cộng Sản đàn anh là Liên Xô và Trung Cộng.

-Thời 1930, theo Đệ Tam quốc tế, tức là Liên Xô.

-Thời 1963, Lê Duẩn. Lê Đức Thọ chống chủ nghĩa Xét Lại của Nikia Khruchchev, chống Liên Xô, theo Mao Trạch Đông.

-Thời 1975, theo Liên Xô chống Trung Cộng. Năm 1978 đuổi 250,000 người Hoa về Trung Cộng, và tổ chức vượt biên bán chính thức bằng tàu, gây ra “Nạn Kiều”. Dẫn đến chiến tranh biên giới (17-2-1979 – 16-3-1979).

-Thời 1990, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đến Thành Đô, Tứ Xuyên, xin Giang Trạch Dân cho Việt Nam được làm một khu sắc tộc tự trị, trực thuộc chính quyền trung ương ở Bắc Kinh như Mãn, Tạng, Hồi, Mông…Từ đó có cờ 6 ngôi sao.

Cứ mỗi lần thay đổi 180 độ giữa Trung Cộng và Liên Xô, thì phe nào mạnh, đàn áp, thanh trừng phe yếu dưới nhiều hình thức. Bắt giam không xét xử, khai trừ ra khỏi Đảng, cô lập, giết nhau dưới nhiều hình thức.

4.1. Nguyên do Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp bị hạ bệ và bị tước hết quyền lực.

Bài viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tạp chí TIME ra ngày 13/4/1998
Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, thọ 103 tuổi

Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp

1). Chủ nghĩa Xét lại của Nikita Khruchchev.

Năm 1953, Nikita Khruchchev được bầu vào chức vụ lãnh đạo Liên Xô. Ông chủ trương “Sống chung hòa bình” giữa chế độ Cộng Sản và Tư Bản, đứng đầu là Hoa Kỳ. Mao Trạch Đông của Trung Cộng phản đối quyết liệt. Lên án đó là Chủ nghĩa Xét Lại. Họ Mao chủ trương tiến hành đấu tranh vũ trang quyết liệt, không nhân nhượng để tiêu diệt chế độ Tư Bản.

Thế là Cộng Sản thế giới chia làm hai phe. Một phe chủ hòa theo Liên Xô, và phe chủ chiến theo Mao Trạch Đông.

2). “Vụ án Xét lại Chống Đảng” năm 1967 trong đảng Cộng Sản Việt Nam.

Tên chính thức của vụ án là “Vụ án Tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại, và làm tình báo cho nước ngoài”. Vụ án mang mã số X77, do Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ, và Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn trực tiếp chỉ đạo. Đưa đến việc bắt giữ không xét xử nhiều nhân vật quan trọng của Đảng Lao động và Nhà Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ năm 1967, với cáo buộc những người nầy đi theo Chủ nghĩa Xét lại và làm gián điệp cho ngoại quốc. Vì gián điệp trong Sứ quán Liên Xô can thiệp, bảo vệ Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh.

Nhận xét về vai trò của Lê Đức Thọ.

…”Nó nắm toàn quyền sinh sát, giải giới bất cứ thành viên nào trong Đảng và chính phủ…” “…Nó vượt trội tất cả các loại mafia ở xứ khác”….”Chúng là những tên mafia được Thọ sáng tạo theo kiểu mới, siêu hơn cả mật vụ”. …”Thọ như con bạch tuộc, có trăm ngàn cái vòi, không chỉ cuộn chặt người trong nước…”. “Tôi còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm rồi !” “Tôn Đức Thắng, Chủ tịch nước: “Đ. M. Tao cũng sợ nó”.

3). Việc thanh trừng trong nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam.

Nội bộ đảng Lao Động (Cộng Sản) cũng chia làm hai nhóm. Nhóm chủ trương “Sống chung hòa bình”, hòa hoãn của Nikita Khruchchev, được gọi nôm na là phe thân Liên Xô. Nhóm theo Mao Trạch Đông, cụ thể là dùng biện pháp vũ trang để đánh chiếm miền Nam Việt Nam.

Phe thân Liên Xô (Nikita Khruchchev) gồm có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh. Phe nầy không muốn đấu tranh vũ trang đánh chiếm miền Nam, vì làm như thế để Mỹ có cớ nhảy vào miền Nam và cũng có thể nhảy ra Hà Nội.

Phe chủ chiến gồm những người đang lãnh đạo và ủng hộ cuộc chiến đấu gọi là “Giải phóng miền Nam”. Gồm có, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Tố Hữu, Hoàng Tùng, Trần Quốc Hoàn…

Nhà nghiên cứu Sophie Quinn-Judge viết trên một tạp chí Journal of Coldwar History hồi tháng 11 năm 2015 cho biết, trong vụ “Xét lại Chống Đảng” có 300 người bị bắt, trong đó có 30 nhân vật cao cấp”.

4). Những người bị bắt.

Những người bị bắt giam không xét xử, gồm đa số là cán bộ lão thành, thân Liên Xô, và nhất là những tay chân bộ hạ trung thành với Võ Nguyên Giáp. Gồm có: Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Đại tá Lê Minh Nghĩa, Đại tá Đỗ Đức Kiên, Hoàng Thế Dũng, Nguyễn Kiên Giang, Minh Tranh, Trần Minh Việt, Phạm Hữu Viết, Phạm Kỳ Vân, Trần Thư, nhà báo Vũ Thư Hiên, nhà văn Bùi Ngọc Tấn…

5). Những người bị khai trừ ra khỏi Đảng.

Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Bộ Văn hóa Lê Liêm, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Văn Vịnh, Thiếu tướng Đặng Kim Giang, ông Bùi Công Trừng, đều bị khai trừ ra khỏi đảng.

Theo Judith Stowe, thì Võ Nguyên Giáp là đối tượng chính của Chiến dịch « Bài trừ Khuynh hướng Xét lại ». Người anh hùng Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp, bị giam lỏng, tay chân bộ hạ trung thành bị đưa vào tù. Còn ông thì được cử vào chức vụ kế hoạch hóa gia đình, nôm na gọi là cai đẻ. Người dân có câu: « Ngày xưa Đại tướng cầm quân, Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em ».

Riêng Hồ Chí Minh thì bị khống chế, cách ly, tước đoạt mọi quyền lực, cho giữ chức vụ Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mac-Lênin

4.2. Âm mưu tước đoạt quyền lực Hồ Chí Minh của hai tên họ Lê.

News – Vinagéo
About Lê Đức Thọ: Vietnamese diplomat (1911 - 1990) | Biography, Facts,  Career, Wiki, Life

Lê Duẩn Lê Đức Thọ

Âm mưu tước đoạt quyền lực của Hồ Chí Minh. Theo một tài liệu được tiết lộ hồi sau năm 1975, thì Lê Duẩn và Lê Đức Thọ âm mưu tước đoạt quyền lực của Hồ Chí Minh bằng con đường đầu độc, thông qua các bác sĩ trị liệu, rồi căn cứ vào đó gán cho ông Hồ chết vì bệnh nhồi máu cơ tim. Ông Hồ không chết, bịnh nặng nên được đưa sang Trung Quốc chữa trị.

Thế là quyền lực thuộc về tay Lê Duẩn, Bí Thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động. Với sự hỗ trợ của hai chức vụ quan trọng là Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn, và Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Lê Đức Thọ. Ban Tổ chức Trung ương trực thuộc Bộ Chính trị và Tổng Bí thư Đảng. Ban nầy quản lý cán bộ các cấp. Bổ nhiệm vào các chức vụ, thăng chức, thăng cấp bậc, thuyên chuyển, cách chức, khen thưởng, trừng phạt…Tóm lại, Ban nầy có quyền hạn rất lớn.

4.3. Chiến dịch hạ nhục Võ Nguyên Giáp

Đặng Đình Loan

Đặng Đình Loan là bộ hạ của Lê Đức Anh, được giao nhiệm vụ đi thuyết trình từ Bắc tới Nam, mục đích hạ nhục Võ Nguyên Giáp.

Ở Huế, Đặng Đình Loan tiết lộ những điều cơ mật về Võ Nguyên Giáp như sau:

« Võ Nguyên Giáp là con nuôi của trùm mật thám Pháp tên Marty. Giáp tiếm quyền Phùng Đức Kiên trong việc thành lập quân Giải phóng ở Tân Trào.

-« Ở trận Điện Biên Phủ, Giáp sợ chết, cứ nằm lì dưới hầm

suốt, may nhờ có Nguyễn Chí Thanh và Hoàng Văn Thái chỉ huy nên mới thắng lớn, rồi Giáp dành vinh quang cho mình. Giáp có tội theo phe « Xét Lại Chống Đảng » của Khrushchev, và thụt thò làm gián điệp cho Đại sứ Liên Xô Sherbacov. Giáp giỏi tài nịnh bợ ông Hồ.

-“ Sau Hiệp định Giơ Neo Quơ, Giáp cho phục viên 8 vạn quân, đưa 2 vạn ra nông trường. Đó là sai lầm về chiến lược. Khi quân Mỹ đánh, Giáp sợ chết, không dám vào miền Nam vì sợ Hoa Kỳ bỏ bom nguyên tử.

-« Năm 1974, khi làm chiến lược, Giáp làm kế hoạch 4 năm nên bị Lê Duẩn bác bỏ. « Nếu 4 năm thì đừng đánh nữa ! »

-« Giáp bê bối, tằng tịu với vợ của nhà văn Đào Vũ, khi bà đến dạy piano ở nhà riêng. Lẻ ra, Giáp phải bị loại trừ từ lâu, nhưng vì sợ Liên Xô cúp viện trợ, nên loại ra khỏi Bộ Chính Trị năm 1981 ở Đại Hội V. Loại trừ ra khỏi Trung Ương năm 1991 ở Đại Hội VII » (Đặng Đình Loan)

Võ Nguyên Giáp bị hạ nhục, nên nhiều cán bộ cho rằng Võ Nguyên Giáp hèn nhát.

4.4.). Những tướng lãnh thân cận với Võ Nguyên Giáp bị thanh toán

Hoàng Văn Thái Whois

Lê Trọng Tấn Hoàng Văn Thái

Theo lệnh của Lê Đức Thọ, Cục An ninh Bộ Nội Vụ đã cho mật vụ giết Đại Tướng Hoàng Văn Thái vào khoảng 1986, và năm sau lại giết Đại Tướng Lê Trọng Tấn, đồng thời bắt hàng loạt các sĩ quan cao cấp trong Bộ Quốc Phòng, là những người bị cho là trung thành với Võ Nguyên Giáp.

Vụ 7 tướng lãnh cao cấp, thuộc hạ của Võ Nguyên Giáp, trong đó có Thượng tướng Đào Trọng Lịch, bị « chết tai nạn » trong chuyến bay công tác sang Lào.

5*. Lê Duẩn âm mưu sát hại Hồ Chí Minh.

Năm 1967. Khi cần phải có mặt Hồ Chí Minh làm bù nhìn để chủ trì Hội nghị Trung ương 14, và ký tên vào Nghị Quyết của Hội nghị, Lê Duẩn cho máy bay sang Bắc Kinh để rước ông Hồ về Hà Nội. Thời gian được tính toán là máy bay sẽ về Hà Nội vào ban đêm.

Khi máy bay về đến Việt Nam, thì sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự, nên máy bay phải đáp xuống sân bay Gia Lâm vào đêm 23-12-1967. Phi công tên Thắng đối chiếu với những vị trí quen thuộc, như tháp điều khiển không lưu, thì thấy hai hàng đèn xác định đường băng đã lệch đi 15 độ. Không thể đáp xuống được, vì chắc chắn máy bay sẽ trượt ra ngoài đường băng, đâm thẳng đến Phố Nổi, gây tai nạn chết người. Phi công liên lạc vô tuyến với tháp điều khiển không lưu, thì không được trả lời, vì hệ thống vô tuyến bị cắt. Phi công Thắng trình bày vụ việc với ông Vũ Kỳ, thư ký của ông Hồ, xin được đáp xuống theo trí nhớ. Được ông Hồ chấp thuận, đáp theo trí nhớ được an toàn. Số mạng của ông Hồ chưa bị Ngọc Hoàng giủ sổ. Có lẽ ông Hồ nhận ra Lê Duẩn âm mưu hạ sát ông. Nếu còn quyền hành trong tay, thì ra lịnh điều tra vụ việc. Thế nhưng không. Im lặng trong tủi nhục.

Ra đón ông Hồ thì chỉ có hai tên họ Lê, và sau đó có Phạm Văn Đồng.

6*. Hồ Chí Minh giết Đại tướng Nguyễn Chí Thanh

Nguyễn Chí Thanh Đại tướng lội ruộng băng đồng - Đời sống - Việt Giải Trí
Nối thêm chuyện Đại tướng Nguyễn Chí Thanh

Nguyễn Chí Thanh (1914-1967) Ủy viên Bộ Chính Trị, Chính ủy “Quân Giải Phóng Miền Nam” từ miền Nam về Hà Nội dự Hội nghị Trung ương 14.

Người vợ của Nguyễn Chí Thanh tên Cúc thuật lại: “Chiều hôm đó anh Thanh vào ăn bữa tối với Bác Hồ. Mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng để sáng hôm sau anh về Nam thực hiện Nghị Quyết 14.

Đến nửa đêm, anh Thanh choàng tỉnh dậy và nói: “Anh thấy trong người khó chịu lắm. Có cảm giác như nước chảy ào ào trong người”. Ói ra máu.

Bà Cúc kêu xe cứu cấp đưa Nguyễn Chí Thanh vào bịnh viện. Bà không được cho phép theo xe vào bịnh viện. Sau đó bác sĩ cho biết ông Thanh chết vì bịnh tim. Bà Cúc rất ngạc nhiên, vì chồng bà rất khỏe mạnh, không có triệu chứng nào về bịnh tim cả.

Những điều bất thường. Chiều hôm đó, khu vực Lý Nam Đế mất điện. Một khu vực đầu não của Hà Nội mà mất điện là một điều khó hiểu. Khó hiểu hơn nữa là bà Cúc không cho theo xe đưa chồng vào bịnh viện.

7*. Hồ Chí Minh bị Lê Đức Thọ khống chế.

Trong “Hồi Ký Viết cho Mẹ và Quốc Hội”, ông Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên cao cấp gốc miền Nam, thuật lại việc Lê Đức Thọ khống chế Hồ Chí Minh trong hội nghị Trung Ương 14. Nguyễn Văn Trấn kể lại lời của Bùi Công Trừng nói với ông.

“Với cái giọng “mẹ đời” Bùi Công Trừng nói với tôi:

– Cái thằng Lê Đức Thọ trước giờ họp, nó đi đi lại lại trong phòng, như thể đội truởng một tổ pháo, đi kiểm tra đốc thúc pháo binh chuẩn bị. Thằng Thọ đến Nguyễn Khánh Toàn, Hà Huy Giáp, thằng Huy…nói nói cái gì đó… Bọn họ nghiêm sắc mặt, gật đầu, và sau đó phát biểu theo ý kiến của hai tên họ Lê.

Mày coi, có tội nghiệp không. Đồng chí Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta, bận đồ lụa gụ, chủ trì hội nghị mà day mặt ra sân. Có lỗ tai tự nhiên nó phải hứng những lời công kích mạt sát Liên Xô. Khi chướng tai quá, quay vô đưa tay xin nói, thì thằng Thọ lễ phép Bắc-Hà: “Bác hãy để cho anh em người ta nói đã nào.”

Tao đếm lão Hồ, đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn. (Hết trích)

Cuối cùng, Nghị quyết ra quyết định cuộc “tổng công kích-tổng khởi nghĩa” Mậu thân 1968 ở 44 tỉnh, thành miền Nam Việt Nam.

8*. Kết luận

Người làm chính trị lúc nào cũng muốn nắm lấy quyền lực. Ở các nước dân chủ, quyền lực được người dân trao cho, qua những cuộc bầu cử, có thời hạn, từng nhiệm kỳ.

Trái lại, ở một số nước, những kẻ ma giáo, bất lương lập bè đảng, cướp lấy chính quyền rồi củng cố quyền lực bằng chế độ độc tài. Độc tài sinh ra mọi tội ác, như tham nhũng, tranh giành quyền lực bằng những thủ đoạn nham hiểm, tàn bạo.

Chế độ Cộng Sản Việt Nam là một bằng chứng cụ thể trong lịch sử Việt Nam.

Trúc Giang MN

Minnesota ngày 9-2-2022

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: https://tiinz.com/2022/02/10/nhung-cuoc-thanh-trung-dam-mau-trong-cac-dang-cong-san/


Uy Vũ Bất Năng Khuất – Hòa Khánh

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997)

Bài đọc suy gẫm : “Uy vũ bất năng khuất” hay Bi Kịch của một trí thức trong chế độ cộng sản, bài của tác giả Hòa Khánh. Hình ảnh có tính cách minh họa.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997), người Việt Nam duy nhất đậu hai bằng Tiến sĩ Luật khoa và Tiến sĩ Văn chương năm 23 tuổi ở Đại học Montpellier (Pháp). Ông tham gia kháng chiến chống Pháp đến khi hòa bình lập lại (1954) thì trở về Hà Nội và làm giáo sư Trường đại học Văn khoa (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội). Ngày 30-10-1956 tại một phiên họp của Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội, LS Nguyễn Mạnh Tường, với tư cách thành viên của Mặt trận Tổ quốc, đã đọc một bài diễn văn phân tích sâu sắc những sai lầm trong cải cách ruộng đất và đề ra phương hướng để tránh mắc lại sai lầm. Vì phát biểu này, LS Nguyễn Mạnh Tường đã bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp và phải sống khó khăn thiếu thốn như một “kẻ bị khai trừ” (tên cuốn sách tự thuật của ông xuất bản năm 1992 tại Pháp). Ông mất năm 1997 tại Hà Nội, hưởng thọ 87 tuổi.

——————

Lâu nay, tôi cứ đinh ninh là LS Nguyễn Mạnh Tường đã mất. Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, tên tuổi của ông bặt đi. Có tin đồn là ông đã chết đâu đó ở một góc khuất tối tăm nào ở Hà Nội.

Thế rồi, bỗng dưng tôi lại nghe là ông vẫn còn sống, hơn nữa, đang có mặt tại Paris: ông được phép sang Pháp ba tháng để thăm viếng một số bạn bè cũ của ông.

Được sự giới thiệu của một người quen, tôi và một anh bạn đã được LS Nguyễn Mạnh Tường tiếp trọn cả buổi chiều ngày thứ hai 27-11-1989.

LS Nguyễn Mạnh Tường năm nay đúng 80 tuổi. Dáng người tầm thước, lưng hơi gù, da dẻ nhăn nheo, nhưng sức khỏe khá tốt, đi đứng vững vàng, đặc biệt trí tuệ còn rất minh mẫn. Suốt hơn ba tiếng đồng hồ chuyện trò, chúng tôi không hề bắt gặp ở ông một dấu hiệu nào của sự đãng trí vốn thường xuất hiện ở người cao niên. Ông nói năng lưu loát, đôi khi hùng hồn. Ông nhớ chính xác chi tiết những sự kiện cũ hoặc mới. Cách lý luận rành mạch.

Điều chúng tôi thích nhất ở ông là sự thành thật. Ở vào hoàn cảnh của ông, thành thật cũng có nghĩa là can đảm. Hơn ba chục năm bị đày đọa, luôn luôn sống trong tâm trạng phập phồng chờ đón những thảm kịch thảm khốc nhất, ông không khiếp sợ đến nỗi phải tự biến mình thành một con vẹt chỉ biết lải nhải lập lại những câu nói đã thành khẩu hiệu của chế độ hoặc co rút lại trong câm lặng, từ khước đối thoại để tránh khỏi nguy cơ bị hớ hênh, bị chụp mũ.

LS Nguyễn Mạnh Tường là một người đầu tiên tôi gặp, từ chế độ cộng sản, vẫn giữ được cái sĩ khí của một người trí thức, “uy vũ bất năng khuất”. Ông không hề từ chối bất cứ câu hỏi nào của chúng tôi dù những câu hỏi đó bắt ông phải công khai bày tỏ thái độ với cái chế độ đã, đang và có lẽ sẽ tiếp tục dập vùi ông.

Chúng tôi xin phép ghi âm buổi nói chuyện với một sự thiếu tự tin rõ rệt. Chúng tôi nghĩ là ông sẽ từ chối. Nhưng không. Ông đã vui vẻ chấp nhận. Để bảo đảm sự trung thực, những chi tiết dưới đây, chúng tôi đều dựa vào bản ghi âm này.

Tưởng cũng nên nhắc lại, trước năm 1945, LS Nguyễn Mạnh Tường là một trí thức xuất sắc nhất của VN với thành tích đến nay tại VN dường như chưa có ai theo kịp: 23 tuổi đậu hai bằng tiến sĩ quốc gia tại Pháp, một bằng về luật và một bằng về văn chương. Về nước, ông hành nghề luật sư và dạy học. Ở cả hai lãnh vực, ông đều thành công và tạo được một uy tín to lớn.

Chúng tôi hỏi LS Nguyễn Mạnh Tường:

– Luật sư có thể cho biết luật sư đã tham gia phong trào Việt Minh và sau đó, tham gia kháng chiến như thế nào?

LS Nguyễn Mạnh Tường đáp:

– Thật ra tôi không hề tham gia Mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Do đó tôi đã từng từ chối nhiều lời mời ra làm bộ trưởng của nhiều chính phủ. Người trí thức phải đứng về phía dân chứ không đứng về phía chính quyền. Người trí thức chỉ nên đứng ở lãnh vực thuần lý chính trị (politique spéculative). Nghiên cứu, thúc đẩy các trào lưu.

Cách mạng tháng Tám làm tôi rất vui mừng. Tôi mong muốn đóng góp vào việc xây dựng đất nước trong hai lãnh vực sở trường của mình: luật học và nghiên cứu văn học.

Năm 1946, một hôm, ông Nguyễn Hữu Đang, người sau này tham gia Nhân văn Giai phẩm và bị cộng sản kết án 15 năm tù, đến văn phòng luật sư của tôi nói là Cụ Hồ mời tôi đến gặp Cụ có việc cần. Nguyễn Hữu Đang chở tôi đến cái chỗ sau này gọi là Phủ Chủ tịch. Ở đó Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ tân, ra tiếp và đưa vào gặp Cụ Hồ. Cụ gọi tôi là Ngài. Cụ nói: “Như Ngài đã biết, chính phủ vừa ký kết với Pháp một bản tạm ước. Theo bản tạm ước ấy, sắp tới, giữa ta và Pháp sẽ có một hội nghị quan trọng. Xin Ngài giúp soạn giùm cho một bản lập trường của chính phủ (thèse gouvernemental) để sử dụng như một cương lĩnh chỉ đạo cuộc hội nghị”. Tôi đáp: “Công việc này quan trọng quá, xin Cụ nhờ một người nào giỏi và có kinh nghiệm hơn tôi”. Cụ Hồ nói: “Tôi đã hỏi ý kiến nhiều người và ai cũng bảo là chỉ có Ngài mới có thể làm được thôi”. Cuối cùng tôi nhận lời, về nhà, đóng cửa văn phòng luật sư, vận dụng tất cả kiến thức về luật pháp quốc tế cũng như những điều khoản căn bản của tạm ước để soạn bản lập trường. Đến khi đem trình, được Cụ Hồ chấp thuận và do đó, buộc tôi phải tham dự Hội nghị Đà Lạt.

Chúng tôi hỏi:

– Luật sư giữ vai trò gì tại Hội nghị này?

– Tôi là trưởng ban văn hóa và là ủy viên trong ban chính trị.

– Cuộc hội nghị thành công tốt đẹp?

– Vâng, về cuộc hội nghị này, đã có nhiều người viết. Chỉ có một điều ít ai biết là, kết thúc cuộc hội nghị, hai bên đã tổ chức một bữa tiệc chung. Trong bữa tiệc ấy, tên tùy viên của thủy sư đô đốc Argenlieu đến cạnh tôi, nói là thủy sư đô đốc muốn gặp tôi để nói chuyện. Tôi bảo là tôi không phải trưởng đoàn, do đó không có tư cách gì để gặp gỡ thủy sư đô đốc cả. Tên tùy viên lại bảo đây là sự gặp gỡ thân mật có tính cách cá nhân thôi chứ không phải để bàn bạc điều gì quan trọng cả. Nghe thế, tôi đứng dậy, rời bàn tiệc ra ngoài hành lang gặp Argenlieu. Lúc ấy trong bàn tiệc ai cũng thấy cả. Và cuộc nói chuyện cũng rất vu vơ, thăm hỏi xã giao về công ăn việc làm thôi. Thế nhưng, về Hà Nội bỗng dưng lại có tin đồn là Nguyễn Mạnh Tường thông đồng với giặc, là Nguyễn Mạnh Tường bán nước…

Chúng tôi hỏi:

– Luật sư có biết tin đồn đó xuất phát từ đâu không?

LS Nguyễn Mạnh Tường cười:

– Thì cũng phải có người phát thì nó mới động chứ. Tin đồn đó là cả một chiến dịch được tổ chức hẳn hoi. Anh Hoàng Xuân Hãn lúc ấy phải đến gặp hình như là Võ Nguyên Giáp thì phải, bảo Tường làm cái gì mà người ta lại tung tin đồn là nó bán nước, theo giặc ghê quá vậy. Nguy cho nó lắm. Mà nguy thật, chỉ cần một phát súng, một mũi dao là xong đời chứ gì. Từ khi anh Hãn can thiệp, tin đồn ấy mới lắng xuống rồi biến mất.

Chúng tôi hỏi:

– Có thể coi đó là nguyên nhân khiến cho về sau cộng sản bạc đãi luật sư chăng?

– Không phải. Cộng sản, những người tham dự hội nghị cùng với tôi, họ biết thực hư, đầu đuôi thế nào hết chứ. Đâu có phải vì tin đồn ấy mà người ta bạc đãi tôi. Đối với trí thức, nói chung cộng sản dùng thì dùng, nhưng bảo là họ có mến yêu không thì tôi… không dám nói là có.

Chúng tôi hướng câu chuyện vào vấn đề chúng tôi quan tâm nhất và có lẽ nhiều người cũng quan tâm đến nhất:

– Theo các tài liệu được phổ biến tại miền Nam trước đây cũng như ở ngoại quốc, luật sư có tham gia vụ Nhân văn Giai phẩm vào những năm 56, 57?

LS Nguyễn Mạnh Tường đáp nhanh:

– Thật ra tôi không hề tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm. Mãi sau này khi người ta kết án nhóm Nhân văn Giai phẩm, tôi mới biết đó là một tổ chức chống đảng với những tên tuổi như Trần Dần, Trần Duy, Hoàng Cầm… gì đó.

– Thế nhưng luật sư cũng có mấy bài viết cùng chung lập trường với họ.

– Vâng, tôi có cả thảy hai bài viết mà ông Hoàng Văn Chí có đăng lại trong quyển “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc” ấy mà. Nguyên là, một hôm ông Nguyễn Hữu Đang và ông Trần Thiếu Bảo, chủ nhà xuất bản Minh Đức, đến gặp tôi để xin bài. Cả hai đều quen biết với tôi từ trước. Chuyện gặp ông Nguyễn Hữu Đang tôi có kể qua lúc nãy. Còn ông Trần Thiếu Bảo thì tôi gặp ở Thái Bình thời kháng chiến chống Pháp. Lúc ấy, ông Bảo cũng làm nhà xuất bản. Tôi có đưa cho ông ấy xuất bản quyển “Một cuộc hành trình”, quyển sách đầu tiên của tôi bằng tiếng Việt.

– Đó là một quyển hồi ký?

– Không. À mà cũng có thể gọi là nửa hồi ký, nửa nghị luận. Đại khái tôi kể chuyện cuộc đời mình, từ một người trí thức tham gia kháng chiến chống Pháp giành độc lập cho đất nước như thế nào…

– Xin trở lại vụ Nhân văn Giai phẩm…

– Vâng, thì cái bài đăng trên Giai phẩm mùa thu năm 1956 là thế. Còn bài viết về vụ cải cách ruộng đất thì là thế này: đó là bài tôi nói chuyện trong một cuộc hội nghị của Mặt trận Tổ quốc. Các anh cũng biết là vụ cải cách ruộng đất đã thất bại nặng nề đến nỗi ông Trường Chinh đã phải mất chức Tổng bí thư đảng cơ mà. Lúc đó có phong trào sửa sai ghê lắm. Trong cái cuộc vận động sửa sai như thế, ông Tố Hữu rồi ông Trường Chinh rồi ông Xuân Thủy đã lần lượt gọi tôi đến nhà riêng của các ông ấy để yêu cầu tôi, trong hội nghị của Mặt trận Tổ quốc, trình bầy cho mọi người biết thế nào là dân chủ. Các ông ấy nói là sau sai lầm của cải cách ruộng đất, chúng ta phải cố làm sao cho chế độ xã hội chủ nghĩa trở thành một chế độ thực sự dân chủ. Nghe thế, tôi mừng quá nên nhận lời ngay. Thế rồi hội nghị được tổ chức. Tôi thuyết trình trọn cả ngày, ba giờ buổi sáng, ba giờ buổi chiều. Thuyết trình xong, người ta khen ghê lắm. Ông Trường Chinh, Ông Xuân Thủy, ông Dương Bạch Mai sau đó lại yêu cầu tôi viết lại bài nói chuyện đó để đưa mấy ông xem.

– Thế, trong hội nghị, luật sư chỉ nói miệng chứ không đọc bài viết đã soạn sẵn?

– Không, thì giờ đâu. Chính mấy ông ấy bảo thì tôi mới viết lại chứ. Tôi đánh máy bài viết thành hai bản, nộp hết cho mấy ông. Thế mà, không biết tại sao, bài viết đó lại lọt ra nước ngoài, bọn báo chí ngoại quốc làm ầm ĩ lên thế mới chết chứ.

– Luật sư có nhớ chắc là không hề đưa bài viết ấy cho ai khác?

– Chắc chắn. Cả hai bản đánh máy tôi đều nộp hết cho ông Trường Chinh và ông Xuân Thủy. Tôi chỉ giữ lại bản nháp viết tay thôi.

– Thế thì luật sư có thể đoán được là tại sao, từ nguồn nào, bài viết của luật sư lại lọt ra nước ngoài được không?

LS Nguyễn Mạnh Tường cười lắc đầu:

– Chịu thôi. Ở đời vẫn có những bí mật như thế đó, các anh ạ.

Chúng tôi lại hỏi:

– Thế sau khi bài viết bị tiết lộ ra ngoài thì cộng sản đối xử với luật sư như thế nào?

– Thì còn đối xử như thế nào nữa. Kiểm điểm rồi đuổi việc thôi.

– Luật sư có thể cho biết nội dung của những cuộc kiểm điểm ấy được không ạ?

– Được chứ. Thì ở đâu cũng giống nhau thôi. Cứ khăng khăng buộc tội tôi chống đảng.

– Khi buộc tội như vậy người ta dựa vào nội dung bài thuyết trình của luật sư hay dựa vào sự kiện bài tham luận được chuyển ra nước ngoài?

– Dựa vào nội dung bài thuyết trình mới chết chứ. Còn chuyện tại sao bài ấy lọt ra nước ngoài thì tôi có biết đâu. Và cũng không ai ghép tội tôi được: bằng chứng đâu?

– Nhưng nội dung bài thuyết trình, như luật sư cho biết là được soạn theo yêu cầu của ông Trường Chinh, Xuân Thủy, Tố Hữu mà…

– Thì đấy…

– Tại sao luật sư không nói cho họ biết điều đó?

– Có. Tôi có nói chứ. Nhưng ai nghe? Người ta bảo cán bộ yêu cầu tôi phát biểu về nội dung khái niệm dân chủ chứ đâu có yêu cầu tôi chống lại đảng?

– Thế luật sư có chống lại đảng không?

– Ít ra, trong cuộc thuyết trình tại hội nghị của Mặt trận Tổ quốc cũng như trong bài viết lại mà tôi nộp cho ông Trường Chinh, ông Xuân Thủy… thì tuyệt đối không có một câu, một chữ nào chống đảng cả. Tôi chỉ phê phán những sai lầm trong cải cách ruộng đất thôi. Mà những sai lầm ấy thì quá hiển nhiên, ngay cả đảng cũng nhìn nhận mà, chứ đâu phải mình tôi.

Bà Nguyễn Thị Năm tức Bà Cát Hanh Long, người đóng góp công của rất lớn cho cộng sản nhưng bị chính cộng sản, tên đồ tể Hồ chí Minh mang ra đấu tố, xử bắn đầu tiên khi chúng phát động đợt cải cách ruộng đất tại bắc việt.

– Luật sư có đi tham gia cải cách ruộng đất?

– Có. Hồi ấy tất cả mọi cán bộ đều phải về các địa phương để tham gia cải cách ruộng đất cả. Tôi cũng phải đi.

– Luật sư về địa phương nào?

– Phủ Nho Quan.

– Công việc của các cán bộ cụ thể là làm gì?

– Để phụ với nhân dân tổ chức các cuộc cải cách ruộng đất thôi.

Trầm ngâm một lát, LS Nguyễn Mạnh Tường kể tiếp:

– Chính trong những đợt đi xuống địa phương ấy tôi mới thấy rõ, thấy hết sự tàn bạo của nó.

Lại im lặng. Chúng tôi cũng im lặng chờ đợi. Giọng của LS Nguyễn Mạnh Tường trầm trầm, buồn buồn:

– Đầu tiên, về Phủ Nho Quan, chúng tôi được học tập là theo lệnh từ trên, tại địa phương này có cả thảy 80% dân chúng thuộc thành phần địa chủ. Tôi điếng cả người. Phẫn nộ thấy ngay cách làm việc như vậy là rất trái khoa học. Khoa học nào cũng phải sử dụng phương pháp quy nạp, phải căn cứ trên quá trình điều tra thực tế cẩn thận, từ thực tế mà đúc kết thành nhận định. Đằng này thì mấy ông từ Trung ương cứ tưởng tượng ra các chỉ tiêu rồi ra lệnh xuống bắt các địa phương phải thực hiện. Cán bộ địa phương muốn hoàn thành công tác thì phải kích thôi. Có nhiều gia đình nghèo xơ nghèo xác, ở trong một căn nhà hẹp có hai gian, tài sản đâu chỉ được một hai mẫu ruộng, thế mà cũng bị khép vào thành phần địa chủ. Để cho đủ số lượng ấy mà! Tội lắm. Oan ức nhiều không sao kể hết được.

– Luật sư có tham gia vào cuộc xử án nào không?

– Không. Người ta đâu có cần luật sư. Mình đi cốt là để rèn luyện quan điểm, rèn luyện lập trường thôi chứ đâu phải để xử án hay để biện hộ cho ai.

– Thế thì ai làm chánh án, luật sư trong các vụ đấu tố?

– Chẳng có chánh án, luật sư gì cả. Phiên tòa được tổ chức ở một bãi sân rộng đâu đó trong làng. Mấy anh thuộc thành phần bần cố nông ngồi ngất ngưởng trên bàn để luận tội, còn mấy người bị gọi là địa chủ thì bị xích cổ, trói chân, trói tay quỳ mọp giữa sân…

– Có cả chuyện xích cổ ư?

– Có. Suốt “phiên tòa”, hết bần cố nông này lên tiếng chửi thì bần cố nông khác lên chửi tiếp. Xong rồi thì đến lượt hành hình địa chủ, vậy thôi.

– Luật sư có bao giờ can thiệp vào những vụ đấu tố dã man như vậy không?

– Có mà muốn chết à? Không. Có chảy nước mắt thì cũng ráng mà giấu đi.

– Có địa chủ nào được quyền tự biện hộ, tự thanh minh cho mình không?

– Không. Lúc đó ai cũng hồn kinh phách tán cả rồi, mặt mũi xanh rờn, đứng còn không nổi nữa thì nói gì đến chuyện tự biện hộ. Mà ai cho? Cứ bị khép vào thành phần địa chủ là coi như đã chết.

– Luật sư có phỏng đoán được số lượng những người bị giết chết trong đợt cải cách ruộng đất ở miền Bắc vào hồi ấy là bao nhiêu không?

– Không. Chỉ biết được ở cái điạ phương mình về thôi.

– Cụ thể, ở Phủ Nho Quan là bao nhiêu người bị giết chết?

– Tôi không nắm con số. Nhưng nhiều, nhiều lắm. Hơn nữa, sau các đợt cải cách ruộng đất còn có các đợt chỉnh phong trong hàng ngũ cán bộ cũng làm cho nhiều người bị oan ức lắm.

– Nội dung các cuộc chỉnh phong là sao?

– Là trừng phạt những đảng viên, những cán bộ có quan hệ ít nhiều với địa chủ, với phản động. Thậm chí, có nhiều người lúc trẻ là đảng viên Quốc dân đảng, từ năm 45, 46, đã theo kháng chiến rồi vào đảng cộng sản, vậy mà người ta còn truy quá khứ ra để hành tội.

– Sau mấy chục năm, nhìn lại, luật sư đánh giá thế nào về cải cách ruộng đất?

– Dĩ nhiên là nó sai rồi. Không những sai, nó còn ác, cực ác nữa. Tôi nghĩ nó không có chút gì VN cả. Người VN, trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, chưa bao giờ tàn bạo đến như vậy. Nó là dấu ấn của Mao…

– Dấu ấn trực tiếp hay gián tiếp?

– Tôi không biết. Ngay thời kháng chiến chống Pháp, tôi có gặp đại sứ Trung Quốc trên các chiến khu. Bận một bộ đồ trắng toát, cưỡi ngựa, trông oai quyền ghê lắm. Ông ấy tên Lã Quý Ba. Người ta nói ông ấy chính là kẻ chỉ huy, vạch kế hoạch cho các phong trào cải cách ruộng đất tại VN.

– Nhưng VN là một quốc gia độc lập, có chủ quyền kia mà?

– Thì đấy. Ngay cái chuyện bắt chước Liên Xô, bắt chước Trung Quốc đã sai rồi thì những chuyện khác theo đó sai theo…

Chúng tôi trở lại chuyện Nhân văn Giai phẩm:

– Xin luật sư kể tiếp về những hình phạt đối với luật sư?

– Kiểm điểm rồi đuổi việc. Tôi có kể khi nãy.

– Cụ thể, trước đó, luật sư làm gì?

– Tôi làm giám đốc Đại học Luật, phó giám đốc Đại học Sư phạm, chủ nhiệm Câu lạc bộ Trí thức và nằm trong ban chấp hành của 10 tổ chức quần chúng ở miền Bắc.

– Đó là những tổ chức gì?

– Ủy ban Hòa bình thế giới, Hội hữu nghị Việt Xô, Hội hữu nghị Việt Pháp, Hội Luật gia VN…

– Luật sư có bị bắt, có bị giam cầm gì không?

– Không. Chỉ bị đuổi ra khỏi tất cả những nơi đang làm việc. Và độc ác nhất là bị cô lập hoàn toàn. Các anh cứ tưởng tượng suốt mấy chục năm trời, không ai dám đến gặp tôi cả. Họ sợ bị liên lụy đến bản thân, đến gia đình của họ. Có khi, đi ngoài đường, nhìn thấy tôi từ xa, là bạn bè, học trò cũ của tôi phải tránh đi chỗ khác. Tôi cũng không trách gì họ. Vì sự an toàn của họ, họ phải làm thế thôi. Nhưng đau xót lắm.

– Trong thời gian suốt mấy chục năm trời như vậy, luật sư làm gì để sống?

– Không làm gì cả. Xin việc gì người ta cũng không nhận. Thoạt đầu, cứ bán dần đồ đạc trong nhà mà ăn tiêu. Bán bàn ghế, giường tủ, rồi bán quần áo, giầy dép… cuối cùng phải bán đến cả sách vở tôi dành dụm thu thập sắm trong hai mươi năm. Bán theo giá bán giấy ký thôi. Rẻ mạt. Nhưng cần sống thì phải bán. Cứ mỗi lần bán sách là mỗi lần tôi có cảm tưởng như có ai lấy dao găm đâm vào tim của mình. Rồi tất cả đồ đạc cạn dần, cạn dần. Tôi lại sống bằng sự bố thí của anh em, bạn bè. Lâu lâu người này cho cái đồng hồ, người khác cho một ít tiền.

– Những người giúp luật sư thuộc thành phần nào?

– Một số là học trò cũ của tôi; một số là những bạn bè của tôi lúc tôi còn ở Pháp và một số khác nữa là những người hoàn toàn xa lạ vì nghe tiếng tôi, thương cho hoàn cảnh của tôi, từ Pháp thỉnh thoảng cho một ít quà.

– Họ là người VN hay người Pháp?

– Người Việt có, người Pháp có.

Thấy cuộc nói chuyện đã khá thân mật, chúng tôi dè dặt nêu ra câu hỏi khác, một câu hỏi thú thật chúng tôi rất tò mò:

– Ba mươi lăm năm sống dưới chế độ cộng sản, luật sư nhận xét gì về cái chế độ này?

LS Nguyễn Mạnh Tường đắn đo một lát rồi đáp:

– Mình nên khách quan. Người cộng sản họ vừa có công lại vừa có tội.

– Luật sư nghĩ gì khi có người gọi chế độ cộng sản tại VN là một nhà nước công an trị (état policier)?

– Đồng ý thôi. Điều đó thì rõ quá.

– Có người còn phân tích thêm, cái nhà nước công an trị ấy tồn tại bằng ba cơ chế: thứ nhất là công an khu vực; thứ hai là hộ khẩu; thứ ba là chế độ quản lý lương thực. Luật sư nghĩ sao?

– Đúng. Từ khi bị thất sủng, tôi vô cùng thấm thía những cái chuyện đó. Không đi làm được, sống bằng cách bán đồ đạc hoặc bằng sự bố thí của người khác mà phải mua lương thực tự do giá cao gấp trăm lần giá chính thức thì khó khăn ghê lắm. Có lúc tưởng không vượt qua được. Còn chuyện hộ khẩu và công an khu vực thì khỏi phải nói. Những chuyện ấy bây giờ vẫn còn đấy nhé.

– Luật sư qua Pháp đã gần hai tháng nay, luật sư có theo dõi tình hình tại các nước Đông Âu không?

– Có chứ.

– Luật sư nghĩ sao?

– Mừng. Mừng lắm.

– Tình hình VN hiện nay thì sao?

– Khó khăn lắm.

– Phong trào đổi mới rồi sẽ tới đâu?

– Chưa biết được. Nhưng có điều chắc chắn là sẽ không có gì đổi mới cả nếu chưa có dân chủ, trước hết là chưa tôn trọng luật pháp. Vì luật pháp không anh minh cho nên có kêu gào đầu tư đến mấy cũng không có ai dám liều lĩnh đầu tư cả. Kinh tế vẫn kiệt quệ mãi.

– Tại sao cộng sản lại cho một người như luật sư sang Pháp?

– Tôi nộp đơn xin xuất cảnh đúng vào thời điểm họ tuyên bố đổi mới. Chứ nếu bây giờ, chưa chắc đã đi được.

– Luật sư nộp đơn xin xuất cảnh từ lúc nào?

– Năm ngoái. Hai tháng sau thì cầm được giấy phép của VN. Nhưng nộp vào Tòa đại sứ Pháp thì phải chờ đúng tám tháng.

– Luật sư có ý định ở lại Pháp luôn không?

– Không. Tháng 12 tới tôi sẽ về lại. Trong thần thoại Hy Lạp có chuyện một vị thần chỉ mạnh mẽ khi đứng trên mặt đất, hễ ai nhấc lên khỏi mặt đất thì thành ra yếu ngay. Tôi nghĩ một người trí thức hay một văn nghệ sĩ cũng vậy. Phải ở trong nước, giữa những thử thách mới tìm ra được sức mạnh.

– Có một số anh em trí thức yêu nước, muốn về VN để canh tân đất nước, luật sư nghĩ là có nên hay không?

– Không. Cứ ở đây làm việc. Đừng về. Về sẽ bị kẹt.

– Tại sao?

– Tôi có nhiều kinh nghiệm về chuyện này. Thế hệ của tôi, bao nhiêu người tài giỏi, Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước… Về nước họ có làm được gì đâu? Thì cũng có một vài đóng góp đấy, nhưng tôi nghĩ, hoàn toàn không tương xứng với khả năng của họ. Đó là chưa kể đến những người kém may mắn hơn. Như tôi chẳng hạn. Có làm gì được đâu?

– Lâu nay, luật sư có viết lách gì không?

– Có. Mấy chục năm qua, tôi hoàn thành được bốn công trình nghiên cứu. Một là “Lý luận giáo dục” (ở châu Âu từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18); hai là “Eschylle và bi kịch cổ đại Hy Lạp”; ba là “Virgile và anh hùng ca latin”; bốn là dịch vở kịch của Eschylle.

– Luật sư viết bằng tiếng Việt hay tiếng Pháp?

– Tất cả đều bằng tiếng Việt. Dụng ý của tôi là để cho người Việt đọc. Tôi mượn những vấn đề trên để cho người Việt đặc biệt là những người lãnh đạo hiểu thế nào là con người, thế nào là dân chủ, tự do, thế nào là quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, v.v…

– Những quyển sách ấy có được in ra chưa?

– Chưa. Tôi có gửi lên Ban khoa giáo Trung ương. Người ta khen là nghiên cứu công phu. Nhưng đến nay không ai chịu in cả. Người ta bảo là không có giấy.

Nhìn đồng hồ thấy đã hơn 6 giờ chiều. Mùa đông trời tối sớm. Chúng tôi cám ơn LS Nguyễn Mạnh Tường để chấm dứt câu chuyện đã kéo dài hơn ba giờ liền. Và hỏi:

– Thưa luật sư, chúng tôi ghi âm buổi nói chuyện hôm nay với mục đích giữ làm kỷ niệm. Tuy nhiên không biết luật sư có đồng ý cho phép chúng tôi công bố những điều luật sư phát biểu chăng?

LS Nguyễn Mạnh Tường cười dễ dãi:

– Các anh cứ tự nhiên. Những điều tôi nói toàn là sự thật cả.

– Sắp về lại VN, luật sư không sợ sao?

LS Nguyễn Mạnh Tường cười to:

– Các anh nhớ là tôi đã 80 tuổi rồi. Tính theo tuổi ta là 81 đấy.

Chúng tôi ra về, lòng phơi phới vui. Vui vì được gặp một người lâu nay mình ngỡ đã chết. Vui hơn nữa, vì thấy Nguyễn Mạnh Tường, cái tên tuổi mình từng kính phục từ thuở bùng nổ vụ Nhân văn Giai phẩm ở miền Bắc, sau bao nhiêu đọa đầy, vùi dập, vẫn giữ nguyên cái sĩ khí của một người trí thức uy vũ bất năng khuất. Ở VN giờ đây, còn được bao nhiêu người như thế nhỉ?

 HÒA KHÁNH

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Nguồn email (Chuyển bài – Tony Trần)

Nguồn tham khảo:  http://www.8saigon.xyz/bi-kich-cua-mot-tri-thuc.html


“Xuân ơi! Xuân ơi!” – Vương Mộng Long

Bài đọc suy gẫm: “Xuân ơi! Xuân ơi!” hay Thời Thế, Thiện, Ác và Con Người, tác giả Vương Mộng Long, ông cũng là sĩ quan Võ bị của Quân lực VNCH. cấp bậc sau cùng Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng, thuộc Liên đoàn 24 Biệt Động Quân. Hình ảnh có tính minh họa.

 

Thời Thế, Thiện, Ác và Con Người

Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.
Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay.
Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác.

Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.

Vương Mộng Long – K20 VBQGVN

***

Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương.

Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ vào nhà thương khám lại. Tôi tiếp tục đi hành quân, cho tới một ngày, thấy mủ màu đen bắt đầu nhỉ ra qua một lỗ rò dưới nách, tôi mới đi tái khám.

Nào ngờ, kết quả lần khám này cho thấy cái mảnh đạn súng cối ấy đã di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn.

Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.

Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II.

Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.
Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.

Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng.

Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.

Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương. Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết.

Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng.

Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư

– Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?

– Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!

– Việt-Cộng à?

– Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ).

– Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?

– “Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.

Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi.

– Hắn thuộc đơn vị nào vậy?

– Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.

– Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?

– Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.

– Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.

– “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm?

Tôi gật đầu, tán đồng,

– Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.

Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.

Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.

Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.

Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh.

Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp.

Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng.

Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản.

Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.

Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau.

Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên:

” Ối! Ối! Đau! Đau quá!… Ư!… Ư!… ư… ư…”

Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành:

“Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”

Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch.

Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.

Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì.

Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay.

Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay.

Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi.

Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.

Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.

Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.

Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm?

Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.

Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều…

Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra.

Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!

Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm.

“Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn.

Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể? Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!

“Here it is!”

Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn.

Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác.

Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ.

Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau.

Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.

 

Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.

Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào.

Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà.

Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu:

“Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby…”

Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt.

Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.

Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây.
Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người.

Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.

Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ,

– Thank you!

Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói.

Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,

– Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!

– Không thèm! Nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng.

Tôi tỉnh như ruồi,

– Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.

– Thuốc của đế quốc, không thèm hút!

– Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.

Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho.

Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.
Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,

– Take it! It’s good for you!

Tôi chêm thêm,

– Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!

Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,

– May you tell him to take it?

Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm,

– Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy!

Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.

Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe.

Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt-Cộng,

– Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.

Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.

– Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị “tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.

– Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.

– E mấy?

– Hăm Tám (28)

Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,

– Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó!

– Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.

– Cấp chức gì?

– Trung úy Đặc-Công.

– Quê ở đâu?

– Hải …”Rương”

– Làng nào?

– Hỏi gì mà lắm thế?

– Thôi không hỏi nữa!

Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.

Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.

Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài.

Mấy lần y mở miệng gọi tôi:

“Này! Này!”

Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya.

Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.

Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ,

– Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?

Tôi ngạc nhiên,

– Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?

Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,

– Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn.

Tôi phì cười,

– Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!

Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:

“Chẳng lẽ chính ủy nói sai?”

tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.

– Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò.

– Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?

Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng.

Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc.

Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện.

Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng,

– Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!

Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm.

Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn.

Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh,

– Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương…

Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái,

– Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra… các anh có độc ác đâu?

Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.

Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh, rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.

Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.

“Don’t throw it away! Keep it for memory!” bà dặn dò.

Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng.

“Take care! Good bye! My son!” phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.

Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: “Her son was a Ranger like you!”

Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.

Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.

Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình…

Tác giả Vương Mộng Long

***

Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư,

– Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?

– Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi.

Tôi biểu đồng tình,

– Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu?
Tôi hỏi tiếp,

– Sau này anh có còn gặp lại y không?

– Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?

Tôi nhắc anh Tư,

– Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?

– “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.

– Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .

Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp,

– Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.

Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng,

– Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy!

Anh Tư gật gù,

– Có khi hai người là bà con cũng nên?

Tôi cũng gật gù theo,

– Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”.

Anh Tư phụ họa,

– Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!
***

Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ, thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.

Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.

Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ.

Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau.

Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”.

Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ.

Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi ới:

“Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”

Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác.

Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng.

Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.

Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh.

Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố:

“Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”

Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ?

Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19.

Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra.

Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm,

– Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán.

Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:

– Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!

“Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3.

Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”.

Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai.

Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm,

– Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy!

Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.
Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân, ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.

Có một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!

Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta.

Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh, núp đàng sau một khuôn mặt điển trai.

Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?

Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước.

Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng.

Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói,

– Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả!

Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại!

Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm!

Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.

Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.

Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:

“Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”

Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.

Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.

Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,

– Lẹ lên! Lẹ lên!

Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc.

Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính canh.

Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng.

Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.

“Ối!…Ối! …Ối!…ôi!…ôi!…ôi!..ư…ư…ư..”

Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.

Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.

Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền.

Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp.

Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, “Hừ!… Hừ!…hừ! …hừ!…”

Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:

“Hừ!… Hừ!…Hừ!..Hường…ơi!…Hư…ường …ơi!…ực!… ực!…ực!…”

Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư! Ử!…Ư! Ử!…ư! ử!…” nhỏ dần.

Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.

Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa.

Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam.

Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.

Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi.

Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.

Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng.

Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17.

Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào… đứng một lúc, nghe ngóng … rồi đi vào.

Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương.
Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.

Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Thiếu Tá Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.

Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt.

Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.

Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian.

Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không?

Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.

Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện.

Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi.
Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.

Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay.

Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác.

Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.

 

Vương Mộng Long – K20 VBQGVN

 

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

 https://hung-viet.org/author/post/9131/1/vuong-mong-long


"Một Cuộc Diệt Chủng" – Đại Nghĩa

Bài đọc suy gẫm: “Một Cuộc Diệt Chủng” hay “Thảm Sát Mậu Thân” do tác giả Đại Nghĩa sưu tầm, đúc kết từ các nhân chứng, báo chí trong ngoài nước. Blog 16 xin chia buồn với gia đình các nạn nhân và đăng tải bài viết, hình ảnh (minh họa) nhân tưởng niệm 50 năm biến cố Mậu Thân.


Bản đồ địa điểm các mộ chôn người tập thể tại Huế.

Thực chất đây là một cuộc diệt chủng, bọn cộng sản đã thẳng tay tàn sát đồng bào mình trong những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc một cách dã man. Cuộc thảm sát kinh hoàng ở Huế Tết Mậu Thân nói lên được sự bội tín và lật lọng đê hèn của đảng cộng sản Việt Nam đã thừa dịp Hưu chiến trong ba ngày Tết để mở cuộc tổng tấn công. Lợi dụng những ngày này lực lượng Việt Nam Cộng hòa cho binh sĩ nghĩ phép 50%, cộng thêm sự lơ là của số quân nhân còn ở tại đơn vị trong những ngày Tết, quân cộng sản Việt Nam đã bất thần tung chiêu đánh lén. Lúc ban đầu vì bất ngờ nên quân VNCH có phần yếu thế, tuy nhiên không bao lâu sau thì lấy lại tinh thần và đã cố thủ được vị trí chiến đấu một cách oanh liệt, duy chỉ có thành phố Huế bị áp lực địch nặng nề nên phải mất 26 ngày sau quân VNCH mới tái chiếm hoàn toàn. Bán Nguyệt san Tự Do Ngôn Luận số 43 (15-1-2008) của linh mục Chân Tín nói đến cuộc Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế như sau:
“Trước tiên, đó là vi phạm thỏa ước hưu chiến mà cộng sản đã cam kết một cách long trọng, khiến phía VNCH tin lời mà cho một nữa số quân nhân về ăn Tết với gia đình nên bước đầu đã phần nào bị động…Thứ hai, đó là chà đạp những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc. Giữa cảnh sum họp êm ấm, CS đã gây cảnh tan nát chia lìa. Giữa bầu không khí yêu thương hòa giải, CS đã đem tới hận thù bạo lực. “Ai đã cướp con tôi? Ai đã giết con tôi giữa cơn mộng đêm thái bình?” Là câu hát còn vang vọng mãi trong lòng dân miền Nam. Máu đỏ pha vào với rượu Tết. Thịt người đã trộn lẫn với bánh tét bánh chưng. Vỏ đạn đã nằm vương vãi lăn lóc cạnh những đồ thờ tự. Thứ ba, đó là giết chết cả thường dân, bất kể tu sĩ, linh mục, y tá bác sĩ, viên chức cán bộ, văn nhân nghệ sĩ, thầy giáo học trò, thậm chí cả những kẻ buôn thúng bán bưng, lao động độ nhật”.(Đối Thoại online ngày 14-2-2008)
Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike, lúc bấy giờ là nhân viên hành chính ngoại giao của cơ quan Thông tin Hoa Kỳ năm 1970 thì có 3 giai đoạn đưa đến những vụ tàn sát:
“Giai đoạn đầu là một loạt các cuộc xử án bất hợp pháp công cộng kéo dài khoảng 5-10 phút do giới chức trong quân Bắc Việt hay Việt cộng dựng lên. Bị cáo luôn bị kết án “có tội với nhân dân”.
“…
“Giai đoạn sau cùng, khi thấy rõ họ đang bị đánh bật ra khỏi Huế, quân Bắc Việt/Việt cộng thi hành những vụ thủ tiêu nhân chứng- bất cứ ai biết mặt họ, nhìn thấy những tội ác trong lúc Huế bị chiếm đều bị giết và chôn mất xác”…

“Marilyn B. Young trong sách tựa đề The Vietnam Wars, 1945-1990 ghi lại:
“Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ…khi trận chiến gần kết thúc bởi cuộc công pháo, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay vì thả họ ra hay bắt theo làm tù binh- với con số người chết không nhiều như chính phủ Sài Gòn và Washington công bố, nhưng nhiều đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 4-2-2008) Phóng viên Thiện Giao của đài RFA qua bài “Huế, 25 ngày kinh hoàng của 40 năm trước” thì theo ông Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên Huế kể lại:
“Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2.326 sọ người. Sau tết, chúng tôi lập Hội Gia đình Nạn nhân Cộng sản trong Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4.000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6.000 người. Có nhà báo ước tính 5.000 người. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu…
“Đỉnh điểm là Khe Đá Mài, thuộc núi Đình Môn Kim Ngọc, tại đây khoảng 400 bộ hài cốt đã được tìm thấy. Những hài cốt tìm thấy tại Khe Đá Mài chính là của những người trú ẩn tại xứ đạo Phủ Cam, xã Thủy Phước, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
“Cộng sản bắt đi trên 500 người, thanh niên từ 15- 16 tuổi đến ông già 60-70 bị đưa đi giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói”. (RFA online ngày 31-1-2008)
Theo hai vị linh mục khả kính Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi hiện đang sống tại Huế kể lại Cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài:
“…tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính quyền cộng sản phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời…
“Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả, có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết”. (Đối Thoại online ngày 17-1-2008)
Qua lời thuật lại của hai linh mục nói trên khi họ gặp một nhân chứng sống lúc bấy giờ ông ta mới 17 tuổi cũng bị bắt theo đoàn người bị đưa đi giết ở Khe Đá Mài nhưng may mắn lợi dụng lúc đêm tối nên ông đã trốn thoát và hiện còn sống ở trong nước và kể rằng:
“Rồi chúng bắt đầu dùng dây diện thoại trói thúc ké từng người một chúng tôi, trói xong chúng xâu lại từng chùm bằng một sợi dây kẽm gai, 20 chục người làm một chùm. Tôi nhớ là đếm được trên 25 chùm, tức hơn 500 người…Về sau tôi được biết đa phần những thanh niên bị bắt đêm mồng 6 Tết tại nhà thờ Phủ Cam và sau đó bị giết chết đều là học sinh, sinh viên, thanh niên nhút nhát hiền lành”. (Thời Luận ngày 24/27 tháng 1-2008)
Phóng viên Don Oberdorfer, năm 1969 sang Việt Nam phỏng vấn nhiều nhân chứng trong thời gian Huế bị cộng sản chiếm đóng đã xác minh cho nhận định của người kể chuyện Khe Đá Mài:
“Oberdorfer báo cáo rằng hầu hết những người nam trên 15 tuổi trốn tránh trong một nhà thờ ở Phủ Cam đều bị đem đi và bắn chết. Khi Oberdorfer phỏng vấn Hồ Tý, một viên chỉ huy Việt cộng trong cuộc tấn công 1968, ông này cho biết đảng cộng sản có lưu ý đặc biệt về khu Công giáo Phủ Cam vì “người Công giáo lè kẻ thù của chúng tôi”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 4-2-2008)
Và dã man nhất là:
“Một trong các cuộc thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The Vietcong Massacre at Hue”, xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje Vannema, kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund Disher cùng Alterkoter đã bị giết trong tháng Hai năm 1968 tại chùa Tường Vân”. (RFA online ngày 31-1-2008)
Theo Phóng viên Thiện Giao thì ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Cải táng Nạn nhân Cộng sản Tết Mậu Thân hồi tưởng:
“Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạc trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…
“Theo Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên thì: “Những báo cáo của các cuộc Cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xã báo cáo, khoảng 5.300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên”. (RFA online ngày 31-1-2008)
Nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên mặt trận hệ thống Truyền thanh quốc gia VNCH, đã có mặt tại Huế từ ngày 5 đến 29 Mậu Thân và đi theo nhiều nhóm tìm hầm chôn tập thể kể lại cảm giác của ông khi nhìn thấy những cảnh tượng ấy:
“Vùng nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm chôn xác tập thể. Cảm giác của tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn các hình ảnh đó…
“ Ngay ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1.000 người. Khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống”. (RFA online ngày 1-2-2008)

 

Trong bài nói chuyện tại buổi 40 năm Tưởng niệm Tết Mậu Thân, Việt Báo Gallery, thứ Bảy 29-3-2008, nhà báo Nhã Ca tác giả “Giải khăn sô cho Huế” phát biểu:
“Bốn mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, cộng sản khai diễn cuộc tàn sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân-không hề có người lính Cộng Hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc hành hình, thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu. Ròi bọ…
“Và cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn sống. Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên hố. Một vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy hai tay chị vói lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân mọc dài hơn. Tóc mọc dài hơn…Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống.
“Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế”. (Việt Báo ngày 31-3-2008)
Theo thông tín viên Tường An của đài RFA thì cư sĩ Trí Lực, người đã chôn cất những xác chết nằm lại sau biến cố Mậu Thân kể lại nỗi kinh hoàng lúc đó như sau:
“Hai mươi sáu ngày sau, sau khi Cố đô Huế bình định trở lại thì tôi tận mắt chứng kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ vùng Bãi Dâu Gia Hội, những người xấu số đã bị trói quật lại sau lưng và có những mảnh xương sọ bị vỡ nát. Cảnh kinh hoàng là cộng sản đã chon sống bao nhiêu người dân vô tội.
“Nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, cũng là chứng nhân của biến cố Mậu Thân kể:
“Gia đình của tôi vùng Phủ Cam là một, vùng An Vân Thượng là hai, Gia Hội là ba. Bà con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi gồm cả thảy 12 người. Trong 12 người đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại chỗ, có người bị chặt đầu, có người bị mổ bụng”. (RFA online ngày 7-2-2012)
Nhân chứng của cuộc thảm sát dã man của CSVN trong những ngày tang thương của Huế trong bài này là bà Nguyễn Thị Thái Hòa kể:
“Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau Tết Mậu Thân…
“Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn gục ngay.. Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuyụ xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà nông nổi ni…
“Tôi đứng sau lưng ông nội, Hoàng Phủ Ngọc Phan hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn: Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tao bắn con Ti!…
“Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dảy dụa mấy cái rồi nằm im.
“Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chỉa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó giành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván. Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kế bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính”. (Đàn Chim Việt online này 16-1-2012)

 QL – VNCH tái chiếm Huế.

Cuộc tổng tấn công gây tang thương cho người dân Huế trong Tết Mậu Thân đã được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết thành bài ca bất hủ: “Hát trên những xác người”
“Chiều đi lên Bãi Dâu
Hát trên những xác người
Tôi đã thấy, tôi đã thấy
Trên con đường
Người ta bồng bế nhau chạy trốn
Chiều đi lên Bãi Dâu
Hát trên những xác người
Tôi đã thấy, tôi đã thấy
Những hố hầm
Đã chôn vùi thân xác anh em…

Xác người nằm trôi song
Trôi trên ruộng đồng
Trên nóc nhà thành phố
Trên những con đường quanh co
Xác người nằm bơ vơ
Dưới mái hiên chùa
Trong giáo đường thành phố
Trên thềm nhà hoang vu

Xác người nằm quanh đây
Trong mưa lạnh này
Bên xác người già yếu
Có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi
Dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy
Bên những vồng ngô khoai”.
(RFA online ngày 7-2-2008)

Một nhà khoa bảng miền Nam là tiến sĩ Dân tộc học Lê Văn Hảo, giáo sư Đại học Văn khoa Huế, Đà Lạt và Sài Gòn vào dịp Tết Mậu Thân ông là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừ Thiên-Huế sau này trả lời phỏng vấn của phóng viên Nguyễn Văn An về vai trò của ông trong trận tấn công Tết Mậu Thân, ông nói như sau:
“Trong tất cả khi nổ ra Mậu Thân tức là trong 26 ngày đêm cộng sản chiếm thành phố Huế thì tôi ngồi trên núi để nghe đài phát thanh suốt ngày, tất cả những gì xảy ra dưới Huế tôi chỉ biết qua đài phát thanh của Hà Nội và đài phát thanh giải phóng.
“Than ôi! Đó không phải sự thật lịch sử mà tôi chỉ là một con tin ở trong thế kẹt phải nhận lấy chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mà mong có ngày về với vợ con thôi! Chớ tôi nói thật với anh vai trò của tôi trong tết Mậu Thân là vai trò hoàn toàn thụ động, tôi chỉ ngồi trên núi nghe đài, nghe tin tức…
“Nói thật anh, việc ấy thì tôi biết ngay khi tôi lên núi thì tôi biết Mặt trận Giải phóng là trò bịp bợm, tức là tổ chức hữu danh vô thực, nó là tổ chức của cộng sản thôi, gọi là MTDTGPMN nhưng mà tất cả do Hà Nội chỉ đạo thôi. Việc đó tôi biết ngay và họ cũng không dấu anh ạ! Lúc đó mình ở trong tay họ rồi nên họ cũng không dấu”. (RFA online ngày 2-2-2008)
Ngày nay khi nói đến Tết Mậu Thân thì người ta đều nghĩ ngay đến cuộc thảm sát tại Huế vì nơi đó đã cho mọi người thấy hết sự tàn sát dã man của những người tự mang danh giải phóng. Tội ác ấy ngày nay chính những người trong cuộc đã chối bỏ trách nhiệm và sự hiện hữu của mình nơi đó, họ không dám nhận cái chiến công hiển hách của họ, vì họ biết đó là chiến công mà loài người nguyền rủa. Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời Thụy Khuê:
“…với tư cách là đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”. (RFI online ngày 12-7-1997)

 Tên đồ tể Hoàng Phủ Ngọc Tường rước việt cộng về giết chính đồng bào Huế của y. 

Sở dĩ áp lực của địch quân tại Huế lâu dài và bị tàn phá nặng nề là do những tên cỏng rắn cắn gà nhà như tiến sĩ Lê Văn Hảo, anh em giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn thị Đoan Trinh… và những thanh niên, sinh viên, học trò của họ đã năng nổ làm những tên xung kích chỉ điểm cho cộng quân tìm bắt và tàn sát người dân Huế cho nên sau này nhạc sĩ Nguyễn Minh Khôi sáng tác bản nhạc “Cơn mê chiều” để nói lên cái ô nhục này:
“Chiều nay không có em
Mưa non cao về dưới ngàn
Đàn con nay lớn khôn
Mang gươm đao vào xóm làng

Đường nội thành xưa ai tàn phá?
Cầu Tràng Tiền bạc màu loang giòng máu…”
(Nguyễn Minh Khôi)
Trả lời phóng viên Thiện Giao đài RFA, một thanh niên trí thức nhận định:
“Trong vụ thảm sát Mậu Thân, ngoài nỗi đau đớn cho dân tộc trong cuộc nồi da xáo thịt tàn độc, còn có một nỗi đau lớn hơn, là vai trò một số trí thức Việt Nam trong cuộc thảm sát này. Bài hát có câu: “Đàn con nay lớn khôn, mang gươm đao vào xóm làng”. Đàn con nớ, có phải chăng là một số trí thức Huế đã đưa Việt cộng vào làng, rồi sau đó theo ra bưng khi quân đội VNCH tái chiếm Huế? Chẳng hạn trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Phan, phát biểu trước đây rằng những người bị thủ tiêu chôn sống là thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân”. (RFA online ngày 7-2-2008)
Trên diễn đàn Talawas, nhà thơ Ngô Minh có viết bài “Bi kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường” thanh minh rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường trong suốt trận tấn công tại Huế thì ông ta đang “luyện chưởng” ở trên núi, nhưng có điều thú vị là Ngô Minh đã nhìn nhận một thực tế mà trước đây CSVN cứ chối leo lẻo:
“Quân Giải phóng mà đa phần là bộ đội trẻ từ miền Bắc vào chết rất nhiều”.
(Talawas online ngày 4-3-2008)
Lời thú nhận cay đắng của thượng tướng QĐND Trần Văn Trà được giáo sư Nguyễn Ngọc Bích nhắc lại trong bài “Trận chiến Mậu Thân Huế (II)”
“Có những đơn vị tham chiến mà không ai sống sót trở về”. (Đàn Chim Việt online ngày 26-3-2008)
Và sự thừa nhận trong niềm hối hận của thi sĩ “cách mạng” Chế Lan Viên trong bài thơ Ai? Tôi!
“Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30…”
(RFA online ngày 14-1-2012)
Đọc qua những tài liệu trên, “ta đã thấy” rõ được bộ mặt của đảng CSVN sát nhân diệt chủng dã man không thua gì bọn diệt chủng Khmer đỏ. Nếu CSVN “giải phóng” được miền Nam năm 1968 thì chắc chắn cảnh đầu rơi máu chảy sẽ thê thảm hơn nhiều, những cảnh giết người man rợ sẽ diễn ra một cách tàn độc hơn cả bọn Ponpot. Ngày nay cộng sản đang ngự trị trên quê hương Việt Nam khốn khổ, do đó mà tội ác diệt chủng của chúng chưa được phơi bày ra ánh sáng công lý cho đến một ngày mà đảng cộng sản mất quyền cai trị, thì ngày đó chắc chắn rằng bọn chúng cũng sẽ bị lôi ra tòa án Quốc tế để đền tội với Tổ quốc, với Nhân dân dù chúng đã chết.

Đại Nghĩa – Sưu tầm