Làm tôi hai chúa! – Nguyễn văn Lục

Bài đọc suy ngẫm: “Làm tôi hai chúa” hay Bọn trí thức bốn tên, viết về một số nhân vật thiên tả, giai đoạn lịch sử trước 1975. Bài viết này theo tác giả Nguyễn văn Lục, để nhìn lại những con người, những giai  đoạn khủng hoảng ấy, để rút ra một bài học cho riêng mình và cho chúng ta.
Thật cay đắng cho chính quyền, người dân miền Nam Việt Nam.

****************

(Chữ dùng của nhà báo Thiên Hổ, tức linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo Xây Dựng mang ý nghĩa miệt thị và bực bội)

Làm chính trị mà hỏng thì chỉ hại đến một thể chế của một thời kỳ. Nhưng làm văn hóa mà hỏng thì hại muôn đời”.

Đất nước này, ở Đệ Nhì Cộng Hòa, nó không còn thể thống, tôn ty trật tự và uy quyền quốc gia. Cộng thêm thành phần lực lượng thứ ba phá hoại đủ kiểu đi đến chỗ mất miền Nam vào năm 1975.

Bài viết này nhìn lại những con người, những giai  đoạn khủng hoảng ấy để rút ra một bài học cho riêng mình và cho chúng ta.

Sự trùng hợp bốn tên ở trên có thể là chuyện đời thường. Nhưng nhớ lại sau 1963, cùng một lúc có bốn tên Trung TR rồi Chung CH đồng loạt.

Đó là những Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung- CH rồi Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung.-T.

Từ đó bè cánh họ phát triển bề rộng lây lan sang nhiều trí thức trẻ khác cùng tham gia..

Thành ra bài này nói về họ mà thật ra nói về tất cả bọn họ. Họ là cái “rễ trùm” tiêu biểu, còn kẻ khác là  “rễ nhánh” ăn theo.

Trách nhiệm không phải chỉ quy vào 4 người mà nhiều người.

Trường hợp Võ Long Triều

Có thể nói, kỹ sư Võ Long Triều là đầu mối mở đầu cho mọi rắc rối chính trị sau này.

Ông du học Pháp, đồng thời với linh mục Nguyễn Quang Lãm. Họ là những sinh viên Việt Nam xa xứ nên dễ gần nhau. Ông Lãm sau này là chủ nhiệm, chủ bút tờ báo Xây Dựng. Khi hai người về Việt Nam, họ vẫn giữ liên lạc bạn bè, toi, moi, có khi cả mày, tao.

Khi ấy, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ muốn dựa vào thế  mạnh của cánh miền Nam nên đã nhờ LM. Lãm giới thiệu cho một người.  Ông lm Lãm nghĩ ngay đến Võ Long Triều, một người bạn cố tri và giới thiệu với tướngKỳ.

Tướng Kỳ hoan hỉ có thêm vây cánh miền Nam để đối đầu với TT. Nguyễn Văn Thiệu.

Kỹ sư Võ Long Triều vốn nằm trong Phong trào Phục Hưng Miền Nam- sau này còn được gọi là Nhóm Liên Trường. Trớ chêu thay, nó mở đầu cho sự lợi dụng qua lại giữa một Bắc, một Nam mà hai bên cùng có lợi. Được sự đỡ đầu của ông Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ- một dân Bắc Kỳ chính hiệu- tiêu biểu như một “người hùng chống cộng” mà mục đích của ông là tạo thêm phe cánh Nam Kỳ nhằm phá rối ông Nguyễn Văn Thiệu.

Ông Kỳ vì thế đã triệt để ủng hộ Võ Long Triều.

Về mặt chính trị

Võ Long Triều lợi dụng làm trung gian xây dựng một số phe nhóm dân biểu đối lập miền Nam như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Hồ Văn Minh, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung, Ngô Công Đức và nhiều người khác ở các tỉnh như Bành Ngọc Quý, Nguyễn Hữu Hiệpvv..

Ông Triều chu cấp tiền bạc ủng hộ nhóm dân biểu đối lập tại Hạ viện. Bọn họ nhờ đó thao túng và gây rối chính trị cho miền Nam đủ loại một cách hợp pháp.

Cái giá phải trả cho sự “ ngây ngô” của ông Võ Long Triều chu cấp cho bọn dân biểu đối lập quậy phá miền Nam là 11 năm tù cải tạo thời cộng sản. Sau này được vợ bảo lãnh sang Pháp.

Đồng thời ông Triều cũng đỡ đầu một phong trào xã hội có tên Chương trình Phát triển Quận 8 nhằm biến các khu nhà ổ chuột thành các khu dân cư khang trang. Những người tham gia vào nhóm này đều là những thanh niên trí thức trẻ, đầy nhiệt huyết và thiện chí như: Bác sĩ Hồ Văn Minh làm tổng quản lý đầu tiên(sau này là Đệ nhất, phó chủ tịch Hạ Nghị viện),Hồ Ngọc Nhuận được chỉ định làm Quận trưởng hành chánh, thêm chức Phó quận là Mai Như Mạnh- xuất thân trường Quốc Gia Hành chánh-Cùng lãnh đạo phong trào có luật sư Đoàn Thanh Liêm thay thế làm tổng quản lý và một số đông giáo chức mà phần lớn người viết bài này đều quen biết như: Uông Đại Bằng, Hồ Công Hưng, Võ Văn Bé, Nguyễn Phúc Khánh, Dương Văn Long, Nguyễn Ngọc Thạch, Đặng Kỳ Trân, Nguyễn Đức Tuyên.

Sau này có thêm hai anh Quốc Gia Hành chánh Là Nguyễn Ngọc Phan và hạm Duy Tuệ làm phó quận. Lại có thêm anh Nguyễn Văn Mừng, kỹ sư canh nông từ Mỹ về . Tất cả khoảng trên dưới 20 người.

Họ còn độc thân nên sống cùng làm, cùng ăn ở với dân trong làng, xây dựng cầu và đường trải nhựa, nhất là mở trường Trung Học cộng đồng quận 8, rồi mở thêm trường ở quận 6. Anh Uông Đại Bằng, hiệu trưởng quận 8, anh Võ Văn Bé và Nguyễn Đức Tuyên, hiệu trưởng hai trường ở quận 6. Các trường với 30 phòng học và 3000 học sinh các cấp trung tiểu học.

Ông Kỳ cũng hỗ trợ các chương trình này bằng tiền bạc và vật liệu.

Có những tên họ đặt rất ấn tượng như “Hẻm ước” “Khóm ước”. Có lần Phó tổng thống Hoa Kỳ Humphrey cũng đến thăm chương trình quận 8 và khen ngợi là một bước phát triển xã hội.

Ông Thiệu thì thấy ngứa mắt nên buộc họ phải bàn giao chương trình này cho ông Đô trưởng Đỗ Kiến Nhiễu, sau này sát nhập vào hệ thống công quyền. Chương trình phát triển Quận 8 dần đi vào dĩ vãng, hết năng động. Các thày giáo vốn nhiệt tâm và lý tưởng, giờ chán nản, rủ nhau trở về nhiệm sở cũ. Thật đáng tiếc và đáng buồn do những tranh chấp nội bộ giữa Thiệu-Kỳ.

Nguyễn Cao Kỳ.

Nói về cái công hay tội của ông Kỳ thì công cũng có mà tội cũng không ít. Công chẳng bao nhiều mà tội góp phần vào sự phá rối miền Nam thì lấy gì bù đắp được? Ông thuộc loại người làm chính trị bốc đồng, bạ đâu hay đó, thiển cận mà thích phô trương, hù dọa không thiếu. Cho nên chẳng lấy gì làm lạ từ khi ra hải ngoại, ông thuộc loại người vô tích sự, hết thời đến độ chán nản, về Việt Nam bắt tay với cộng sản, bất chấp dư luận người Việt hải ngoại.

Lý Quý Chung

Lý Quý Chung nhìn nhận ông bước vào chính trường, trúng cử 3 lần dân biểu đối lập là nhờ sự hỗ trợ tiền bạc của Võ Long Triều, Lý Quý Chung viết: “Võ Long Triều  là thày dùi, một trong những đầu mối tập hợp quân cho tướng Kỳ. Người tài trợ cho các ứng cử viên dân biểu được ông Triều tài trợ không ai khác là tướng Kỳ.”

Điều đó chứng tỏ cả tướng Kỳ lẫn Võ Long Triều đều có tội đối với miền Nam.

Tờ Tin sáng

Và để có tiếng nói chung của nhóm, họ còn cho ra tờ báo Tin Sáng như một chỗ dựa cho cả nhóm.. Tờ Tin Sáng do dân biểu đối lập tại Hạ Nghị Viện là Ngô Công Đức đứng tên chủ báo vào năm 1968, quy tụ khá đầy đủ những tên tuổi đối lập, sau này được gọi là thành phần thứ ba với những nhân vật gốc rễ như Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, linh mục Nguyễn Ngọc Lan sau hồi tục, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung.

Lý Chánh Trung khai chiến, mỉa mai với bài : Chợ Chiều. Sinh viên Trần Quang Long với bài: Thực tại và ước mơ. Nguyễn Văn Trung với bài lý luận: Mỹ thua Mỹ ở Mỹ.. Dương Văn Ba: Không còn ảo tưởng. Một anh Mỹ Don Luce với bài: Giã từ Việt Nam khói lửa và bài Chuồng cọp Côn Đảo.

Mục đích của tờ báo là kịch liệt chống Mỹ-Thiệu không ngưng nghỉ và đòi hỏi chấm dứt chiến tranh. Tổng kết Tin Sáng với 349 số báo mà một phần ba các số báo bị tịch thu.

Và tờ Tin Sáng đóng cửa năm 1971 khi Ngô Công Đức thất cử rồi phải trốn sang Pháp qua lối Cam Pu Chia. Ở bên Pháp, ông móc nối lại với đại diện cộng sản tại Pháp.

Mặc dù chỉ tồn tại ba năm. Ba năm ấy, nó cũng đã gây được tiếng vang và sự thành công nhất định.

Họ hãnh diện và hí hửng mừng thầm, chính quyền hầu như bất lực.

Bề ngoài, người ta tưởng rằng đây là một tập hợp những người đồng chí hướng, liên kết chặt chẽ như một sức mạnh chính trị, thành một Khối, chia sẻ công việc và coi như anh em, hay ít ra là đồng chí.

Thật sự nó không hẳn như mọi người lầm tưởng. Sau này cho thấy nó phân mảnh,tan rã đi đến chỗ thù địch,tố cáo nhau gian lận như trong Hồi Ký Những Ngã Rẽ của Dương Văn Ba.

Nội hai người tạm gọi là đầu đàn là Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung, bề ngoài tưởng họ liên hệ, làm báo chung trên tờ Sống Đạo, rồi trên tờ Hành Trình, Đất Nước, rồi Trình Bày. Vậy mà sau 1975 , Lý Chánh Trung làm dân biểu, người đại diện cho Mặt Trận. Nguyễn Văn Trung bị hất ra rìa, có lúc bị biệt giam 6 tháng. Sau đó thu xếp cho con trai trưởng đi chui và bảo lãnh gia đình ông và sống còn lại với những ngày thầm lặng.

Như thế rõ ràng là đối lập cuội.

Về Lý Chánh Trung

( Xin mời đọc bài của người viết đăng trên Đàn chim Việt, Info: Thân phận những kẻ dư thừa.)

Lý Chánh Trung với những bài nịnh bợ Đảng như Một thời bom đạn, một thời hòa bình, Đối diện với chiến tranh:  Người viết đã viết đầy đủ về con người và hành trạng của ông. Con người ông có lúc công khai tuyên bố từ bỏ đạo công giáo để lấy lòng đảng, chỉ đến khi một cậu con trai bị xe tông phải sống đời thực vật trong nhà. Đây là nỗi đau riêng mà gia đình ông bà phải chịu đựng không thể nói ra lời. Ông như hối hận, trở lại đạo và khi chết có theo nghi thức công giáo.

Khi ông mất, thọ 86 tuổi, cái còn lại duy nhất ông đựợc thừa hưởng là căn nhà trong làng Đại Học Thủ Đức ở số 17, đường Công Lý, quận Bình Thọ, Thủ Đức do TT. Ngô Đình Diệm giúp tiền xây cất và tùy mỗi người chọn nhà thầu xây cất tùy ý.. Ông cúc cung tận tụy với đảng, hãnh diện cho con trai tình nguyện sang Campuchia, thử hỏi Đảng đã cho ông được cái gì? Họa chăng mấy cái bằng khen và mấy hình ảnh lãnh tụ cộng sản lộng kính treo ở ngay phòng khách?

* Về Lý Quý Chung(1940-2005)

Chung có thể là người trẻ nhất, tay mơ nhất trong bọn họ. Cuốn sách đầu tay của Chung là : Hồi Ký Không Tên. Sau đó được Diễn Đàn Talawas phổ biến lại. Cuốn sách kể ra không đến nỗi tệ.

Thoạt đầu ông khởi nghiệp báo như một ký giả, ông có tham dự cuộc hành hình ông Ngô Đình Cấn-cố vấn miền Trung- .

Thời điểm ấy, sau cái chết của anh em ông Diệm, có nhiều thành phần trở cờ như trường hợp tờ Sài gòn Mới, Chủ nhiệm là bà Bút trà. Nhiều bài viết sau này cũng hùa theo bôi nhọ chế độ Đệ I Cộng Hòa. Thật ra, không ai cấm họ viết như thế, nhưng với điều kiện trước đây, họ đừng có khen, đừng xu nịnh chế độ.
( Xin đọc thêm bài viết: Mạn đàm với Vĩnh Phúc, cũng đã đăng trên Đàn Chim Việt. Info)

Khinh họ là ở chỗ đó. Nhân cách họ không có, từ rỉ rả ca tụng hết lời thành chửi bới thô tục.

Phần nhà báo Lý Quý Chung trong chương: Chập chững vào nghề báo. Có thể ông là nhà báo trẻ duy nhất không viết về hùa theo đám đông.

Ông đã nhận xét một cách khách quan về thái độ can đảm và bình tĩnh của ông Ngô Đình Cẩn trước những lời tố cáo đủ loại của nhiều người trước đây vốn thường quỵ lụy ông Cẩn.

Lý Quý Chung viết: “ Tôi vẫn nhớ thái độ ông Cẩn trước tòa án rất ngạo mạn, ông chẳng quan tâm gì đến diễn tiến phiên tòa. Chẳng chú ý đến các lời buộc tội ông. Ông mặc bộ đồ bà ba, mầu trắng, mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các phiên xử. Nhiều lúc còn có cử chỉ tỏ vẻ khinh khi khi các tướng tá  đang ngồi xử mình. Và lúc bị đưa ra hành quyết, ông bị trói chặt vào cột hành quyết và lúc sắp sửa bị bịt mắt bằng vải đen thì ông ta phản ứng. Ông nhất định không để bị bịt mắt, muốn được nhìn tận mắt cuộc hành quyết mình. Người ta vẫn bịt mắt ông và một loạt súng kết liễu mạng sống của người thứ ba và là em út trong gia đình họ Ngô.

 Ảnh: Ông Ngô Đình Cẩn

 Bài tường thuật của tôi nhấn mạnh hai điểm: Ông Cẩn không sợ chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử ông tại tòa.

( Xin đọc thêm, Hồi Ký của Luật sư Quan, rất xúc động cũng viết về ông Cẩn trước tòa và thái độ trước cái chết với bản án tử hình. Phải đợi khoảng gần 30 năm sau trong Hồi ký của luật sư Quan- người biện hộ cho ông Cẩn- NGHỀ HAY NGHIÊP, đăng trên tờ Thế Giới Ngày Nay ở Kansas, Hoa Kỳ, năm 1992)

Ông Lý Quý Chung chứng tỏ khi viết về bản thân mình cũng khá trung thực như tỏ bày: ông học dở dang, vỏn vẹn có bằng tú tài I, chương trình Pháp. Tay nghề làm báo kể như khởi đi từ số không. Đã có lần bố ông từ ông, vì vụ đánh tư sản tại nhà ông cụ. Ông viết lại về  lời nguyền rủa của ông cụ:” Tao không muốn gặp mặt mày nữa. Gia đình mày đã ra thế này, cha mày đã ra thế này mà mày còn viết báo cho cộng sản. Cha mày từ mày.”

Ông viết tiếp:” Còn các em trai của tôi thì không tin vào người anh của mình nữa. Chỉ làm thinh để chuẩn bị vượt biên. Như vậy cùng một lúc tôi mất bảy đứa em.”

Kể ra cái giá theo cộng sản thật là đắt. Chẳng những thiệt hại cho bản thân mình mà còn bị gia đình ruồng bỏ

Bài học như vậy mà nhiều người vẫn không học xong.

Phần ông, ông vẫn tiếp tục lăn vào chính trị một cách hầu như vô ý thức để thời cuộc đưa đẩy hay chạy theo chủ nghĩa cơ hội.

Khởi đi từ lúc đầu chỉ là trí thức khuynh tả xông xáo, nhảy sang đứng giữa, rồi trở thành phần thứ ba và cuối cùng thành phần “ bưng bô cộng sản”.

Người viết sẽ còn có dịp mổ xẻ về vấn đề này một cách chi tiết và đầy đủ về những kẻ chọn lầm bên..

Cùng lắm, có thể nhận xét một cách công bằng cuối cùng ông chỉ đạt được một nửa cuốn sách khi viết về VNCH. Nửa sau, ông đã phải “nín thở qua sông” trước áp lực chính quyền cộng sản mà trong một bài người viết điểm cuốn sách đã một lúc mỉa mai đổi tựa đề cuốn sách của ông thành: Nhật Ký Của Im Lặng.

Dựa theo Hồi Ký Không Tên, người viết nhớ lại sau 1963 xuất hiện hàng loạt những khuôn mặt chính trị non trẻ, không có một tý bề dầy chính trị gì cả cũng như sinh hoạt Nghị Trường. Họ là những Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung, Hồ Ngọc Nhuận(Tác giả cuốn Đời, in photocopy, một trong những người khôn ngoan, lanh lợi, luồn lách quậy phá nhất trong chốn Nghị Trường), Phạm Thế Trúc(sau chốn sang Nhật không về), Nguyễn Hữu Hiệp, Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Cứ, Hoàng Ngọc Biên, Dương Văn Ba, Nguyễn Văn Châu, Bành ngọc Quý, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Tấn Mẫm.

*Những ngõ quặt chính trị trước 1975: Sự lộ diện thêm quyền lực tôn giáo tham gia vào chính trị để chia phần.

Phải buồn mà thú nhận rằng, con đường làm chính trị của các dân biểu cũng như 6 liên danh Thượng Nghị Sĩ lúc bấy giờ- dù Liên danh của công giáo hay Phật giáo hay tướng lãnh- hầu như tất cả không trừ-đều qua cánh cửa chùa hoặc cổng nhà thờ.

Sư sãi, cha cố trở thành những kẻ che dù, những người ban phát quyền lực chính trị. Thần quyền lấn lướt thế quyền là điều không chối cãi được.

Đó là cái thời mạt vận nhất của nền Đệ II Cộng Hòa báo hiệu một thời kỳ giông bão gần tới..

Và đây là lời thú nhận của nhà báo Lý Quý Chung: “Trong khi chuẩn bị cho cuộc vận động cho liên danh Dương Văn Minh với tư cách đại diện báo chí, tôi đã tiếp cận giới Phật giáo Ấn Quang, tìm sự ủng hộ của lực lượng Phật giáo có hậu thuẫn quần chúng lớn nhất. Ông viết tiếp: “ Lần đầu tiên, theo báo Newsweek gọi TT. Trí Quang là “Người làm rung chuyển nước Mỹ”. Khi tiếp xúc thì thấy con người ấy đã toát lên một thứ thần sắc khác thường. Ánh mắt sắc như sao băng, chiếu thẳng vào người đối thoại như nhìn thấu những suy nghĩ của họ. Tôi nhớ mãi ấn tượng đầu tiên ấy khi lần đầu khi gặp nhà tu hành nổi danh.

Khi ra Huế, dân biểu Lý Quý Chung cũng đưa ra một nhận xét khá đặc biệt khi gặp Đức Tăng Thống:  “Trong chùa Bảo Quốc, chỉ treo một bức  ảnh chân dung duy nhất trên tường. Đó là chân dung Thượng tọa Trí Quang. Như thế đủ thấy ảnh hưởng của thầy Trí Quang với người lãnh đạo tinh thần cao nhất của Giáo hội Phật giáo là như thế nào.”

Cho nên, hai quyền lực đó đáng nhẽ không đi đôi, dung hợp với nhau. Hoặc có cái này thì không có cái kia.

Người ta không thể làm tôi hai chúa một lúc được. Nó báo hiệu một sự sa đọa trần thế khó tránh được.

Riêng Lý Quý Chung, càng ngày càng cho thấy ông sa đà vào quyền lực, đi tìm một chỗ đứng cho mình. Thời VNCH, ba nhiệm kỳ đắc cử làm dân biểu đối lập tưởng yên phận.

Sau đó, từ đối lập nhảy sang tình nguyện làm một thứ gia nô cho cộng sản, ca tụng một cách hèn hạ, tự bôi nhọ, xóa bỏ chính mình.

Người viết, xin trích dẫn một đoạn trong cuốn: Vivre au Viet Nam của Alain Ruscio như sau: “ Như phần đông bạn bè chúng tôi ở đây, tôi có kinh nghiệm làm báo ở hai chế độ. Như Đức, người giám đốc điều hành của chúng tôi: Trước đây, chúng tôi chỉ là những người thợ bửa củi, còn bây giờ chúng tôi là những người thợ nề. Hai thái độ hoàn toàn khác biệt nhau.Trong ý nghĩa muốn xây dựng mà chúng tôi sẵn sàng dấn thân. Ngày hôm nay, tôi tự cảm thấy mình là người hữu dụng cho xã hội Việt Nam, cho dân tộc tôi, gắn bó hơn với đời sống của đất nước tôi, trách nhiệm hơn. Và đúng vậy. Đó là con người tôi ngày hôm nay.” (Sách trang 176)

Về điểm này, Hồ Ngọc Nhuận có viết lại một cách mỉa mai: “Trước đây chúng tôi là thợ bửa củi, bây giờ chúng tôi là thợ mộc biết đục và bào nhẵn”

Có lần Lý Quý Chung còn hèn mạt đến độ còn viết thư thành khẩn xin với Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho ông được vào đảng cộng sản.!!

Rồi cái gì cần xảy đến thì đã xảy đến.

Trong chương 25 nói về: Thời khắc lịch sử: Sự đầu hàng của Dương Văn Minh.

Vào thời điểm đó, rợp lá cờ Giải phóng, nửa xanh, nửa đỏ tung bay khắp nơi. Xe cộ, trẻ con, nhà nhà rợp bóng cờ màu xanh.

Vậy mà chẳng bao lâu sau, khoảng chừng một tháng, lá cờ màu xanh đỏ biến mất trên đường phố Sài Gòn.

Như thế, phải nói lại là miền Nam có hai lần Giải phóng. 30-04, giải phóng cờ Quốc Gia, cờ màu vàng  ba sọc đỏ. Sau khoảng một tháng, giải phóng cờ một lần nữa.

Lá cờ màu xanh đỏ thay thế bằng lá cờ đỏ sao vàng.

Đó là mặt trái, phản bội vốn dĩ của người cộng sản, vắt chanh rồi bỏ vỏ không thương tiếc.

Tóm tắt những trang Hồi ký của ông viết về giai đoạn trước 1975 như sau:

-Vai trò của trí thức miền Nam Việt Nam

-Bộ mặt thật của sinh hoạt chính miền Nam dưới thời Đệ II Cộng Hòa.

– Vai trò chủ động của người Mỹ trong những yếu tố quyết định số phận miền Nam.

-Tính cách con rối của toàn bộ sinh họat chính trị ấy. Cuối đời và cuộc sống của gia đình Lý Quý Chung rơi  vào túng quẫn, vợ ông phải tháo gỡ cửa kính trên lầu để có tiền chợ và cuối cùng phải bán cả nhà, đi ở thuê. Đảng cho ông được cái gì?

Về dân biểu Nguyễn Hữu Chung

Đã đến lúc cần nói về nhân vật kín tiếng này. Giữa Lý Quý Chung và Nguyễn Hữu Chung, cả hai đều là những người thân tín của ông Dương Văn Minh. Lý Quý Chung là Bộ trưởng thông trong chính phủ Dương Văn Minh. Nguyễn Hữu Chung là bộ trưởng phủ Thủ tướng. Tuy nhiên cả hai có nhiều sự cách biệt về thái độ sống, về lập trường chính trị.

Thật ra thì những thành phần trí thức thiên tả này không xa lạ gì với người viết bài này vì cùng thời.

Vì thế, để hiểu rõ về họ, mời bạn đọc thêm bài viết của người viết nhan đề: Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh.

(Đăng rên DCV online. Net)

Nhìn lại hai người qua trung gian Dương Văn Ba trong Hồi Ký: Những ngã rẽ.

Trong hồi ký này, Dương Văn Ba tiết lộ, Dương Văn Ba là thứ trưởng Bộ Thông tin trong chính phủ
Dương Văn Minh. Ông Dương Văn Minh là tượng trưng cho sự thất bại. Cờ đến tay, ông không biết phất, lúc phất đều là phất bậy. Ảnh: Nhân vật lịch sử Dương văn Minh

Theo Hồ Ngọc Nhuận, một người thân cận với đại tướng Dương Văn Minh nhận xét một cách nhẹ nhàng hơn: “ Tướng Dương Văn Minh theo thiển nghĩ của tôi, ít nhiều là một tấn bi kịch, một tư thế luôn chẳng đặng đừng, một đưa đẩy lựa chọn gần như không lúc nào là không miễn cưỡng.”

(Hồ Ngọc Nhuận, ibid, trang 394)

Dân biểu Nguyễn Hữu Chung: Bộ trưởng tại Phủ Tổng thống. Hồ Ngọc Nhuận, Đô trưởng Sài gòn. (Nhưng nghe theo lời khuyên của của Ngô Công Đức mới từ Pháp về khuyên, ông đã lánh không có mặt).

Mặc dù được phong chức Bộ trưởng trong chính phủ hai ngày, ông Nguyễn Hữu Chung có lẽ hiểu được tính cách mong manh và con cờ thí của chính phủ Dương Văn Minh. Vì thế, ông đã vào hội kiến Dương Văn Minh và xin đưa vợ con lên tầu Việt Nam Thương Tín, sau đó, ông xin định cư ở Montréal, Canada cùng chỗ với người viết bài này.

Sau này, trong đám tang ông Dương Văn Minh, ông đã bay sang Mỹ và đọc bài diễn văn ai điếu đầy cảm xúc, đại diện thay cho tất cả mọi người có mặt trong đám tang đó.

Có thể nói dân biểu Nguyễn Hữu Chung là ít tai tiếng nhất trong đám họ.

Ông cũng cùng viết báo cho tờ báo in Đi Tới, chủ bút Đoàn Minh Hóa. Sau đây, xin trích dẫn một đoạn thư của ông để lại như một chúc thư để lại cho đời:

“Anh Hóa,

Bác sĩ cho “ moa” 12 tháng, “ moi” xài  hết 6 tháng rồi. Anh kêu tôi viết, tôi cám ơn anh, nhưng tôi nghĩ mình viết cái gì bây giờ?

Mình viết về một dân tộc mà mình biết có phân nửa. Mình viết về một đất nước mà mình biết có phân nửa. Mình viết về thế hệ tương lai, một thế hệ sanh ra và lớn lên mà cả hai thế hệ này, nó không biết mình là ai, mà mình cũng không biết nó là ai. Anh thấy không, anh kêu tôi viết về tuổi trẻ, về tương lai về một thế hệ  mà đã hơn một phần tư thế kỷ mình không ở đó, cái điều ấy có thế sao, nhưng quan trọng hơn, là mình không dự phần, mình không chia sẻ, thì bây giờ viết cái gì bây giờ. Tôi đi năm 75, ở cái tuổi sung mãn thì chỉ để đi kiếm cơm. Bây giờ về hưu rồi.. Hết rồi “toa”. Nhưng anh cứ nói cho tôi biết, tôi phải viết cái gì bây giờ?

Nguyễn Hữu Chung

Một ngày tháng tư 2003.

Những người chạy theo cộng sản, họ được gì thay cho lời kết luận?

Tôi đã tự hỏi mình và hỏi mọi người, những thành phần lực lượng thứ ba và thiên cộng, họ được gì?

Và xa hơn nữa những người từng chiến đấu, vào sinh ra tử, sát cánh với cộng sản họ được gì và mất gì?

Hãy bắt đầu bằng triết gia Trần Đức Thảo, hồi Trung học, thày dạy ông là giáo sư Neir đã phải thốt lên rằng: Không thể chấm nổi bài ông. Ông đã đỗ đầu vào trường École Normale Supérieure, sau đỗ thạc sĩ dạy ở Sorbonne, thường tranh luận ngang ngửa với J.P. Sartre.

Ông đã gặp ông Hồ và tình nguyện về Việt Nam, đáp tàu đi ngã Mạc Tư Khoa, rồi thẳng đường về Bắc Việt (năm 1951).

Họ Hồ cho ngồi chơi xơi nước, làm công việc dịch thuật những truyền đơn địch vận từ tiếng Việt ra tiếng Pháp. Họ Hồ phán: “Chú đọc sách vở ngoại quốc đã nhiều, nay chú mới về hãy nên học dân trước đã”.

Mặc dầu ông đã hy sinh địa vị cao quý ở Pháp để trở về nước tham gia kháng chiến, ông vẫn bị quy là phản động và tay sai đế quốc.

Giả dụ thay vì về Bắc, ông về miền Nam thì  miền Nam sẽ giang tay rộng mở đón ông như đã đón nhận nhiều người khác. Ông sẽ có một địa vị vững vàng hơn bất cứ ai ở bình diện triết học. Ông sẽ có chỗ ngồi xứng đáng cho kiến thức chuyên sâu về triết học.

Cũng giống như trường hợp nhà văn Nam Cao cũng được miền Nam rộng tay đón nhận cũng như các văn nghệ sĩ khác như Văn Cao, Phan Khôi vv..

Phần Nam Cao với các truyện ngắn hay, đắt giá như: Nghèo, Đôi móng giò, Con mèo và nhất là chuyện Chí Phèo đã được chính thức đưa vào giảng dạy tại trường Đại học Văn khoa Saì Gòn.

(Xem Nam Cao, truyện ngắn tuyển chọn, nxb Văn Học)

Sau này, ông Thảo sống giả điên, giả dại mà vợ cũng bỏ đi lấy một cán bộ cao cấp.

Rồi Nguyễn Mạnh Tường nổi tiếng năm 23 tuổi đã đỗ hai bằng tiến sĩ luật khoa và văn khoa khi học ở Montpellier. Ông viết bài: ‘Những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Xây dựng quan điểm lãnh đạo” . (tháng 10/năm 1956).

Sau này ông viết : Kẻ bị mất phép thông công. Hà Nội 1954-1991. Bản án cho một trí thức.

(luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Hà Nội ngày 30-10-1956)

Ông sống bữa đói, bữa no, có gì còn lại lo bán sạch để cho miếng cơm vào miệng suốt một đời.

  • Tiếp đến đám trí thức, cán bộ nhà văn, nghệ sĩ đã từng sát cánh vào sinh ra tử với “ cụ Hồ” trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp, sau trận Điện Biên Phủ như Nguyễn Hữu Đang, nhạc sĩ Văn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân, Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, Lê Đạt trong cái khẩu hiệu” Trăm Hoa Đua nở”. Họ bị đầy đọa, sống không bằng kiếp chó như Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán. Những thành phần cốt cán sống chết với Đảng còn bị trùy dập như thế thì xá chi đến những thành phần lực lượng thứ ba ở miền Nam?
  • Phùng Quán có làm nhiều bài thơ, nhưng đặc biệt có bài: Lời mẹ dặn.

(Xin tóm tắt)

Con ơi, trước khi nhắm mắt

Cha con dặn con suốt đời

Phải làm một người chân thật.

Mẹ ơi chân thật là gì?

Mẹ tôi hôn lên đôi mắt

Con ơi một người chân thật

Thấy vui muốn cười, cứ cười

Thấy buồn, muốn khóc là khóc!!

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét (1957)

*Trần Dần

(xin tóm tắt) Với bài thơ bất hủ: Nhất Định thắng.

Tôi ở phố Sinh Từ

Hai người

Một gian nhà chặt

Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui…..

Tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ

*Phan Khôi

Phan khôi là một trong những ngòi bút viết phiếm xỏ xiên nhất và cay độc nhất như truyện: Ông Bình Vôi.

nếu như nhược bằng bắt mọi người phải viết theo một lối với mình, thì rồi đến một ngày kia, hằng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết.”

*Bọn trí thức Việt Kiều yêu nước tại Canada

Người viết bài này đã có bài viết nhan đề: Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị.

Đây là những thành phần sinh viên ưu tú của miền Nam Việt Nam được gửi đi du học nước ngòai. Học xong 4 năm, bọn họ nhất tề ở lại để khỏi phải đi lính. Tôi gọi một cách mỉa mai là: Những kẻ đứng ngoài cuộc chiến.

Tệ hại hơn nữa, họ lập hội, buôn bán làm ăn ở phố Beaudry, bóc lột các thuyền nhân mới sang định cư.. Qua trung gian của bọn họ, gửi  các thùng đồ thuốc tây 50 đô la, 100 đô la, 150 đô la để người thân bên nhà bán đi nuôi sống.

Nay cộng sản bên nhà không nhìn nhận họ, người việt Boat people cũng tẩy chay họ.

Nay bọn họ sống chốn lui, chốn ẩn như chồn lùi, không dám giao tiếp với cộng đồng người Việt hải ngoại. Nói chung, họ hèn nhát, ích kỷ, ham sống sợ chết. Ngay cả làm hôn thú giả với các cô gái ăn sương ở tiệm Rickshaw ở phố Tàu Montréal để được ở lại.

Bài viết của tôi như một lời cảnh báo, phê phán nhưng không một ai trong bọn họ lên tiếng phản bác đúng hay sai.

Họ chọn sự im lặng.

Ít lắm xin hài tên bốn người trong bọn họ: Lương Châu Phước, Đỗ  Đức Viên, Trần Tuấn Dũng và Nguyễn Văn Nhã.

Số phận họ coi như một vật phế thải dưới mắt chính quyền cộng sản, vì không còn có giá trị lợi ích nào nữa. Còn đối với cộng đồng người Việt, họ thấy nhục và cúi đầu im lặng.

Còn lại những nhân vật thuộc thành phần thứ ba, quậy phá nát miền Nam thời Đệ Nhị cộng Hòa ra sao?

*Nguyễn trọng Văn

Vào lúc cuối đời, Nguyễn Trọng Văn vốn người Việt gốc Hoa, nhưng ít ai biết điều này. Ông bố Văn là một ông Ba Tàu, bụng phệ, cởi trần tôi chỉ cúi đầu chào và không được nghe tiếng trả lời. Văn ly dị người vợ đầu cũng gốc người Hoa, làm nghề châm cứu rồi anh bị tai biến mạch máu não, phải ngồi xe lăn. Có lấy một người vợ khác, tương đối tốt.

Khi sống, Văn hung hăng đến bá đạo chửi cả thày dạy, truy chụp và vu khống chỉ vì nghe theo lệnh Đảng cùng với Lữ Phương.  Ai bênh thì cứ bênh, nhưng sự thật là như thế.Trước đây, chửi Pham Duy trong bài tham luận: Phạm Duy đã chết như thế nào? Người viết đã có bài viết: Phạm Duy còn đó hay đã chết?

Cũng cùng một lẽ ấy Nguyễn Trọng Văn sẵn sàng phê phán người đã đỡ đầu cho ông làm luận án do sự giới thiệu trực tiếp của tôi. Văn đã viết bài: Những người con hoang của J.P. Sartre. Và sau này làm trợ giảng cho giáo sư Trần Thái Đỉnh.

Nay sống thui thủi một mình, vẫn ở trong một căn nhà hẹp vài chục mét vuông, hẻm đường Nguyễn Tri Phương mà trước đây tôi thường đến chơi: số nhà T.6, cư xá Bắc Hải Hồng Lĩnh, quận 10. Văn qua đời, sau đó được hỏa táng. Không biết có bao nhiêu người người thăm viếng vào ngày 23 tháng 06-năm 2013?

Ngô Công Đức

Ngô Công Đức vừa là một nhà báo, vừa là một doanh nhân thành đạt. Tiền bạc nhiều cỡ bạc tỷ. Có lúc mở tổ hợp sơn mài. Tuy nhiên, cuộc sống cũng ba chìm bảy nổi, thành đạt cũng có, nhưng lên voi xuống chó cũng không thiếu.

Vì thế trước khi chết, ông lại ví mình như “cánh lục bình trôi”, bập bềnh trên sông nước Hậu Giang.

Ám chỉ ai thì không rõ. Đảng chăng?

Nhưng ông vốn người công giáo nên lại là cái cớ  sự tạo nghi ngờ cho Trần Bạch Đằng.

Phải chăng bọn họ như lục bình trôi, một thứ bèo băm, trộn thêm cho lợn ăn?

Ông qua đời vì bịnh gan, ngày 22/06/2007 và lễ nghi an táng được tổ chức long trọng tại nhà thờ Đức Bà Sàigòn và chôn cất ở Bình Dương.

*Dương Văn Ba

Khi còn là sinh viên Triết, Đalạt. Ba đã nổi tiếng bạo trợn khi cần tranh luận. Tuổi còn trẻ mà đã đùm đề mấy mặt con với một bà vợ gốc gác nhà quê hiền lành và chất phác. Vì thế túng thiếu với tiền học bổng vỏn vẹn 1500 đồng không nuôi đủ một vợ đùm đề với một bày con. Ba là khách hàng thường trực của cha Viện trưởng. Sau này, thôi chức viện trưởng, Cha Viện trưởng Nguyễn Văn Lập đã bảo quản lý xóa sạch nợ của sinh viên.

Sau 1975, tôi đi xe đạp ở góc đường Bùi Thị Xuân thì gặp Ba dừng xe lại trên một chiếc xe jeep Land Rover thì phải.

Tôi chẳng hiểu lý do nào Ba có cuộc sống sung túc như vậy trong khi tôi rơi xuống hàng chó ngựa?

Sau này được biết Ba khai thác gỗ bên Lào tại Vientia. Ông còn làm quản lý các chương trình Cimexcol-BPKP. Hình ảnh xôi động của đội ngũ Cimexcol, trong đó có thanh niên xung phong, anh công nhân, đến những anh trí thức Sài gòn cũ, sĩ quan ngụy đi học tập về, những kỹ sư bám đường, bám bãi, bám rừng, ủi đất, kéo gỗ, tìm phương án làm bật dậy một vùng hoang vu, nhưng lại đầy tiềm năng..

Tướng Chẹng Xây nhavong hết lời ca tụng sự hợp tác Lào-Việt.
( Xem thêm: Hồ Ngọc Nhuận: Dương Văn Ba với cách làm ăn mới trong bút ký Đời, trang 326-341).
Cũng theo Hồ Ngọc Nhuận:” Ngay chuyến ra quân thử lửa đầu tiên của Cimexcol đã thành công vang dội: đưa hàng trăm khối gỗ thông Lào vượt Trường sơn, vượt đèo Khe nưa vô cùng hiểm trở, xuất khẩu lần đầu tiên sang Nhật qua cảng Cửa Lò, thành phố Vinh. Chính phủ Lào đã gọi chiến dịch này là một chiến dịch thần tốc”.

( Xem Hồ Ngọc Nhuận. Hồi ký Đời, ibid, trang 308)

Vậy mà số phận Dương Văn Ba là số con rệp.

Dương Văn Ba bị bắt cuối năm 1987.

Án tù dành cho Dương Văn Ba là chung thân khổ sai.

Hồ Ngọc Nhuận đứng ra xin bảo lãnh với ông Tư Ánh (Trần Bạch Đằng). Ông này trả lời: “ Cậu bảo lãnh cái gì cũng được, nhưng cậu định bảo lãnh cả về chính trị nữa sao?.”.

Cuối cùng thì Dương Văn Ba chỉ bị tù 7 năm, 2 tháng thay vì chung thân.

Một tiết lộ quan trọng  của vụ án sai oan là người ta đã ghép tội Dương Văn Ba có liên hệ với Hoàng Cơ Minh, vì trong nhóm Hoàng cơ Minh có người tên Dương Văn Tư. Từ đó liên kết cho Dương Văn Tư là em ruột Dương Văn Ba. Khôi hài.

Nhận xét một cách không úp mở. Dương Văn Ba chỉ là nạn nhân của một cuộc đấu đá quyền lực giữ nội bộ đảng, nói huỵch tẹt ra giữa Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt, giữa Bắc và Nam như thường xảy ra sau này. Sau Võ Văn Kiệt lên làm thủ tướng mới giải cứu được Dương Văn Ba.

Dương Văn Ba cuối đời

Cuộc sống cuối đời kể là thanh bạch hầu như trắng tay. Cộng thêm bị tai biến mạch máu não. Điều ngạc nhiên không ít đối với tôi là trước khi qua đời khoảng ba năm, Dương Văn Ba đã rửa tội theo đạo công giáo!!! Lý do nào đã đưa đến quyết định cuối đời như vậy? Có lẽ chỉ trừ Dương Văn Ba có câu trả lời cũng như trường hợp Nguyên Sa Trần Bích Lan, nhà văn Duyên Anh và nhiều người khác.

Đám tang ông Giuse Dương Văn Ba 1942-2015, hưởng thọ 73 tuổi. Ông rửa tội và trở thành Ki tô hữu từ năm 2012. Ông được Chúa gọi về và đám tang tại giáo xứ Vườn Soài, sau đó được hỏa thiêu ở Bình Hưng Hòa.

Có vài vòng hoa của : Gia đình Tin Sáng, gia đình Cimexcol và gia đình Châu Tâm Luân.

Con trai trưởng kính báo: Dương Trần Thảo.

Một lời thay cho lời kết.

Bài viết như một bày tỏ chân thành cho thấy Đảng trên hết. Đảng là “the strong do what they can.The weak suffer what they must

(Sử gia Thucydides)

Còn tôi hiểu đơn giản hơn: Cái gì Đảng cũng làm được, trừ nói thật.

Nguyễn Văn Lục.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Đàn Chim Việt


“Đi Như Ri là Mất Nước” – Tú Gàn

 Nhà thờ Cha Tam, cuối đường Đồng Khánh, Chợ Lớn

Bài đọc suy gẫm: Câu nói định mệnh của Tổng thống Ngô Đình Diệm hay “Những Giờ Định Mệnh” là bài viết tổng hợp từ nhiều nguồn của tác giả Tú Gàn, báo “Sài Gòn Nhỏ” nhằm soi sáng thêm nhiều chi tiết về cuộc chính biến 1963 tại miền Nam Việt Nam. Hình ảnh chỉ có tính minh họa thêm cho bài đọc.

 Nhà của ông Mã Tuyên (trái), Hoa kiều.

Các tài liệu phát hiện gần đây cho thấy Hoa Kỳ đã hoạch định cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm kể từ năm 1961, khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối không cho Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam để mở rộng chiến tranh, và biến cố Phật Giáo vào tháng 5 năm 1963 được coi là một cơ hội tốt nhất để Hoa Kỳ thi hành quyết định của mình. Cuộc đảo chánh này đã được cơ quan CIA hoạch định rất chu đáo từng chi tiết, không để một kẻ hở nào. Ấy thế mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã thoát ra được khỏi Dinh Gia Long chỉ một thời gian ngắn sau khi cuộc đảo chánh bắt đầu. Nếu Tổng Thống Ngô Đình Diệm không chống lại các kề hoạch phản công và không quyết định ra trình diện, cuộc đảo chánh rất khó thành công. Trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã ra khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein, người điều khiển trực tiếp cuộc đảo chánh, đã hỏi: “Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt lại cho kỳ được, vì rất quan trọng”. Trong cuốn “Việt Nam 1954 – 1975, Những sự thật chưa hề nhắc tới”, hai tác giả Hoàng Lạc và Hà Mai Việt cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã rời khỏi Dinh Gia Long, nhóm đảo chánh hết sức lo sợ. Tướng Minh kéo Tướng Là tới và bảo: “Toa đừng có lo, Moi đã tiên liệu rồi, Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ đã chuẩn bị sẵn sàng hai Dakota C47 bên Liên Đoàn Vận Tải để chúng ta và gia đình đi khỏi nơi này nếu cần”. Sau khi cuộc đảo chánh kết thúc, Tòa Đại Sứ Mỹ và cơ quan CIA đã mở một cuộc điều tra để xem vì sơ hở nào mà hai ông Diệm và Nhu đã thoát ra được khỏi Dinh Gia Long. Ông Adams, Đệ Nhất Tham Vụ của Tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigon đã đích thân đến gặp ông Cao Xuân Vĩ, người có mặt trong Dinh Gia Long khi cuộc đảo chánh xẩy ra, để điều tra về vụ này. Ông Cao Xuân Vĩ cho biết lúc đó ông chỉ trả lời qua loa, nói rằng ông chỉ là kẻ thừa hành, không biết gì nhiều về chuyện này. Nay một trang sử đen tối của đất nước đã được lật qua, ông Cao Xuân Vĩ đã tiết lộ cho chúng tôi đầy đủ những chi tiết về cuộc ra đi khỏi Dinh Gia Long của ông Diệm và ông Nhu đã làm Tòa Đại Sứ Mỹ và cơ quan CIA hoảng sợ. Tuy nhiên, trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ trình bày những nét chính. Toàn bộ chi tiết của vụ này sẽ được chúng tôi trình bày đầy đủ trong bộ “Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam” Quyển II. Để độc giả dễ nắm vững vấn đề hơn, trước hết chúng tôi xin lược qua kế hoạch tổ chức đảo chánh của CIA, sau đó sẽ trình bày vể vụ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu rời Dinh Gia Long.

1.- CIA XEM GIÒ XEM CẲNG

Sau khi cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 kết thúc, nhiều người lầm tưởng rằng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim và Đỗ Mậu là những nhân vật chủ chốt cầm đầu cuộc đảo chánh đó. Phật Giáo đã cử phái đoàn đi quàng vòng hoa cho Tướng Tôn Thất Đính và Tướng Trần Văn Đôn. Những nghĩ như thế là lầm. Cuộc đảo chánh ngày 11.11.1960 do Đảng Đại Việt chủ mưu là một sự trắc nghiệm để CIA biết ai là những kẻ trung thành với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và tìm cách biến họ thành những tay sai của CIA trong việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Ngô Đình Nhu không ngờ được chuyện này. Khi cuộc đảo chánh này xẩy ra, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh đang giữ chức Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng ở Phủ Tổng Thống. Tướng Khánh đang ở nhà, nghe tin có đảo chánh, đã chạy vào Dinh Độc Lập. Thấy cửa đóng, ông leo qua hàng rào để vào. Tổng Thống Ngô Đình Diệm phong cho Tướng Khánh làm “Tư Lệnh Toàn Quyền” để thương lượng với phe đảo chánh. Tướng Nguyễn Khánh ra hỏi Trung Tá Vương Văn Đông, người đang chỉ huy cuộc đảo chánh: “Mấy anh muốn gì?”. Trung Tá Đông cho biết muốn thay đổi chính phủ, trao chính quyền lại cho quân đội. Tướng Khánh vô trình ông Diệm và ông Nhu rồi trở ra cho biết Tổng Thống đã đồng ý và mời các tướng lãnh đến họp ở Bộ Ngoại Giao để bàn chuyện thay đổi chính phủ. Trong khi đó Tướng Khánh lại xúi ông Diệm kêu gọi Đại Tá Trần Thiện Khiêm đem Sư Đoàn 7 ở Mỹ Tho về giải cứu thủ đô. Nhờ sự câu giờ của Tướng Nguyễn Khánh, Đại Tá Trần Thiện Khiêm đã đem quân về giải vây Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Chánh Thi, Trung Tá Vương Văn Đông và một số người tham gia đảo chánh đã phải bỏ chạy qua Cam-bốt. Những người liên hệ khác kẹt lại đã bị bắt. Sau vụ này, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh được thăng lên Trung Tướng và cho giữ chức Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, rồi đi làm Tư Lệnh Quân Đoàn II, còn Đại Tá Trần Thiện Khiêm được thăng lên Thiếu Tướng, cho giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Vợ Tướng Khiêm được bầu làm Dân Biểu Quốc Hội, luôn đi cạnh bà Ngô Đình Nhu. Biết ông Diệm và ông Nhu tin tưởng Tướng Khánh và Tướng Khiêm, CIA móc nối ngay. Người thứ ba được CIA chú ý là Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, vì đây là một sĩ quan có khả năng đang được ông Ngô Đình Nhu đánh giá cao và xây dựng để cho giữ những chức vụ quan trọng sau này. Đại Tá Thiệu lại đã theo Đạo Công Giáo khi lấy một bà sơ người Mỹ Tho xuất dòng, nên càng được ông Nhu tin cậy hơn. Năm 1957, Đại Tá Thiệu được cho đi học một khóa chỉ huy và tham mưu tại Command and General Staff College ở Ft. Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Năm 1959 được đi tu nghiệp tại Okinawa, Nhật Bản, và năm 1960 trở lại Hoa Kỳ học về võ khí mới ở Fort Bliss. Đây là cơ hội tốt để CIA móc nối. Cuối năm 1960 Đại Tá Thiệu trở về Việt Nam, được Ông Ngô Đình Nhu tạm thời cho làm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân do Tướng Dương Văn Minh đang làm Tư Lệnh. Đây là một tổ chức mới được lập ra để cho Tướng Minh “ngồi chơi xơi nước”, vì Đoàn Công Tác Đặc Biệt vừa khám phá ra Tướng Minh đã liên lạc và chứa chấp hai tên tình báo Việt Cộng trong đó có người em là Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, một cán bộ cao cấp do Hà Nội gởi vào liên lạc. Ông Diệm không muốn đưa vụ tai tiếng này ra ánh sáng nên chỉ tìm cách cô lập Dương Văn Minh mà thôi. Năm 1962, có lẽ do sự sắp xếp của CIA, Đại Tá Thiệu đã xin gia nhập Đảng Cần Lao để được ông Nhu tin tưởng hơn. Trong kế hoạch xây dựng Ấp Chiến Lược để cô lập Việt Cộng, Đại Tá Thiệu đã có nhiều ý kiến rất xuất sắc nên được ông Nhu khen ngợi. Khi Tổng Thống Diệm quyết định giải tán Bộ Tư Lệnh Hành Quân và đưa Tướng Minh về làm “Cố Vấn Quân Sự” của Tổng Thống, một chức vụ hữu danh vô thực, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu được cử đi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh ở Huế. Đầu năm 1963, khi thấy tình hình lộn xộn, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đưa Đại Tá Thiệu về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 đóng ở Biên Hòa. Đại Tá Thiệu được ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu trao nhiệm vụ giải cứu thủ đô khi có đảo chánh. Ông Nhu không hề hay biết Đại Tá Thiệu là người của CIA. Tướng Đôn không được cả ông Diệm lẫn ông Nhu tin dùng lắm vì cho rằng “ăn chơi quá”. Những người thân cận với ông Ngô Đình Cẩn đã cho biết vào năm 1962, Tướng Đôn đã ra Huế và vào xin ông Ngô Đình Cẩn cho theo đạo Công Giáo. Ông Cẩn nói rằng việc theo đạo là việc của Giáo Hội Công Giáo. Nếu muốn theo đạo, cứ việc tới gặp Linh mục Đỗ Bá Ái, tuyên úy quân đội. Sau khi nói chuyện với Tướng Đôn, Linh mục Đỗ Bá Ái đã phán ngay: “Anh này nhiều vợ quá, không theo đạo được!” Tướng Đôn cũng không được CIA tin dùng vì quá thân Pháp. Nhưng lúc đó Tướng Đôn đang giữ chức Tư Lệnh Lục Quân, nên CIA phải dùng. CIA dự trù khi sắp làm đảo chánh, họ xúi Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng, đi Hoa Kỳ chửa bệnh mấy tháng, thế nào Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng sẽ cử Tướng Đôn làm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, vì không còn ai hơn. Mọi việc đã xẩy ra đúng như vậy. Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Tướng Trần Văn Đôn đã mô tả ông ta như là sếp sòng trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963, mọi sự đều do ông ta hoạch định và chỉ đạo. Nhưng sự thật không phải như vậy. Tài liệu cho thấy, trong các quyết định quan trọng, Tướng Đôn không hề được tham dự, như quyết định giết ông Diệm chẳng hạn. Quyết định này chỉ có Lucien Conein, Trần Thiện Khiêm và Dương Văn Minh biết mà thôi.

2.- CIA LẬP KẾ HOẠCH ĐẢO CHÁNH VÀ GIÀNH QUYỀN LÃNH ĐẠO MIỀN NAM

Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Tướng Nguyễn Khánh đã tiết lộ rằng khi Hoa Kỳ quyết định lật đổ ông Diệm, người đầu tiên được Lucien Conein bàn hỏi không phải là Tướng Dương Văn Minh hay Tướng Trần Văn Đôn, mà là Tướng Trần Thiện Khiêm. Lucien Conein, Tướng Khiêm và Tướng Nguyễn Khánh đã họp với ông Al Spera, cố vấn Bộ Tổng Tham Mưu, để bàn định việc này. Sau khi bốn người bàn định xong những việc phải làm, Lucien Conein mới tiếp xúc với Tướng Trần Văn Đôn để yêu cầu Tướng Đôn phối hợp với Tướng Khiêm lập kế hoạch đảo chánh. Khi kế hoạch được Cabot Lodge duyệt y mới giao cho Tướng Dương Văn Minh thực hiện dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Lucien Conein và Tướng Khiêm. Lực lượng chính dùng để đảo chánh là Sư Đoàn 5 của Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu ở Biên Hòa. Các tướng Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân và Tôn Thất Đính chỉ là kẻ thừa hành. Đại Tá Đỗ Mậu chỉ được dùng để sai vặt. Ngoài ba nhân vật chủ chốt là Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu, CIA còn móc nối được với hầu hết những nhân vật khác được ông Diệm và ông Nhu tin cậy như Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, ông Trần Quốc Bữu, Đại Tá Phạm Ngọc Thảo, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, v.v. Ba nhân vật then chốt nói trên cũng được Hoa Kỳ dùng để điều hành miền Nam Việt Nam sau khi lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim… chỉ là những con bài thí. CIA đã tạo ra cuộc chỉnh lý ngày 30.1.1964 để loại các con bài thí này, đưa những người đã được họ tuyển chọn lên nắm chính quyền để thực hiện kế hoạch đưa quân Mỹ vào Nam Việt Nam, mở rộng chiến tranh để thực hiện các cuộc đấu thầu quốc phòng. Lúc đầu, Hoa Kỳ định đặt Tướng Khánh làm Quốc Trưởng còn Tướng Khiêm làm Thủ Tướng. Nhưng Tướng Khánh cho rằng làm Quốc Trưởng chỉ là làm bù nhìn, nên tìm cách đẩy Tướng Khiêm ra ngoại quốc để kiêm luôn chức Thủ Tướng, tình hình rối loại mới xẩy ra. CIA dùng Phạm Ngọc Thảo làm đảo chánh để loại Tướng Khánh rồi đưa Nguyễn Văn Thiệu lên thay. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng chỉ là một con bài thí, được Cabot Lodge dùng để dẹp tan phong trào Phật Giáo mà CIA đã dựng lên để lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, nay đã trở thành kiêu binh. Về sau, phong trào Phật Giáo đã được dùng như một lực lượng phản chiến để đưa quân Mỹ ra khỏi Việt Nam. Khi tình hình bắt đầu ổn định, Tướng Khiêm được đưa về làm Bộ Trưởng Nội Vụ rồi từ đó lên làm Thủ Tướng muôn năm. Nhìn lui nhìn tới, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, miền Nam luôn được đặt dưới quyền lãnh đạo của các nhân viên tình báo Mỹ: Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm.

3.- TÌNH HÌNH TRONG DINH GIA LONG KHI CUỘC ĐẢO CHÁNH BẮT ĐẦU

Sáng 1.11.1963, để cầm chân Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho các tướng hội họp để tổ chức đảo chánh tại Bộ Tổng Tham Mưu, Đại Sứ Cabot Lodge đã dẫn Đô Đốc Harry D. Felt, Tư Lệnh Thái Bình Dương, vào thăm ông Diệm. Sau cuộc viếng thăm, ông Diệm có mời ông Cabot Lodge ở lại để nói chuyện thêm. Trong khi nói chuyện, ông Diệm có hỏi ông Lodge rằng nghe tin sắp có đảo chánh, có đúng như vậy không. Ông Lodge nói rằng ông không hề nghe tin đó, nếu có nghe ông sẽ báo tin cho Tổng Thống biết ngay, và quả quyết Hoa Kỳ không đồng ý một cuộc đảo chánh như vậy. Trong khi Đại Sứ Cabot Lodge gặp ông Diệm, CIA cho Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5, vào gặp và nói chuyện với ông Ngô Đình Nhu để cầm chân ông này. Đại Tá Thiệu đã hỏi ông Nhu rằng có nghe tin gì về đảo chánh không. Ông Nhu cho biết không có tin gì mới cả. Chiếu 31.10.1963, theo lệnh của Lucien Conein, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu đã điều động 2 trung đoàn của Sư Đoàn 5, một tiểu đoàn pháo binh và một chi đoàn thiết giáp, nói là đi hành quân ở Phước Tuy, nhưng khi đến ngả ba xa lộ Biên Hòa và quốc lộ 15 đi Vũng Tàu, các đơn vị này được lệnh dừng ở đó đợi lệnh. Sáng 1.11.1963, Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên, cháu của Đỗ Mậu, Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, ra lệnh hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến là Tiểu Đoàn 1 của Đại Úy Trần Văn Nhựt và Tiểu Đoàn 4 của Đại Úy Lê Hằng Minh đi hành quân ở núi Thị Vãi, Ba Rịa, rồi bất thần đưa về Saigon tiến chiếm Tổng Nha Cảnh Sát, Bộ Nội Vụ, Nha Truyền Tin và đài phát thanh Sài Gòn. Còn Tướng Mai Hữu Xuân đưa tân binh quân dịch ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung về chận các ngả vào Sài Gòn. Đến 1 giờ trưa, Đại Tá Thiệu bất thần ra lệnh cho cả hai trung đoàn di chuyển về Saigon, một trung đoàn đóng ở Phú Lâm, còn một trung đoàn đóng ở ngả tư Hàng Xanh để ngăn chận quân cứu viện từ ngoài tiến về giải cứu Sài Gòn. Bản doanh của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 5 được đặt tại Trường Đại Học Sư Phạm ở đường Cộng Hòa. Lúc 1 giờ 30, tiếng súng bắt đầu nổ ran tại một vài nơi ở Sài Gòn. Ông Cao Xuân Vĩ, Tổng Giám Đốc Thanh Niên, đã gọi cho Ngô Đình Nhu tại Dinh Gia Long để hỏi thăm tin tức. Ông Nhu bảo ông Vĩ đi quanh một vòng xem tình hình như thế nào. Ông Vĩ lái xe đi một vòng rồi vào báo tin cho ông Nhu biết tình hình vẫn yên tỉnh. Ông Nhu hỏi: “Chúng nó lấy lực lượng nào để đảo chánh?” Ông cho biết sáng nay Đại Tá Thiệu mới đến đây nói chuyện và báo cáo tình hình vẫn yên tỉnh. Trung Tá Lê Như Hùng, Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ tại Phủ Tổng Thống đặc trách liên lạc với quân đội, được gọi đến Dinh Gia Long để liên lạc với những đơn vị có nhiệm vụ bảo vệ Sài Gòn. Trung Tá Hùng đã liên lạc ngay với Tướng Trần Thiện Khiêm ở Tổng Tham Mưu và Tướng Tôn Thất Đính ở Quân Đoàn III, hai nơi này cho biết Tướng Khiêm và Tướng Đính đang họp ở Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tá Hùng gọi cho Đại Tá Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5, ở đây cho biết Đại Tá Thiệu đang đi hành quân. Trung Tá Hùng quay qua gọi cho Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân, nhưng không ai trả lời. Ông Ngô Đình Nhu không hề biết Đại Tá Quyền đã bị lực lượng đảo chánh giết chết. Trung Tá Hùng liền gọi Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Ở đây trả lời Đại Tá Tung đi họp ở Tổng Tham Mưu. Ông Nhu cũng không biết Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đem Đại Tá Tung ra sau Nghĩa Trang Bắc Việt thủ tiêu rồi. 

Ảnh Đại tá Lê Quang Tung (trái), tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và Đại tá Hồ Tấn quyền, tư lệnh Hải quân. Cả hai bị quân đảo chánh sát hại ngay từ đầu.

Trong khi đó, ông Cao Xuân Vĩ gọi cho Tổng Nha Cảnh Sát nhưng không liên lạc được, vì nơi đây đã bị Thủy Quân Lục Chiến chiếm. Ông liền liên lạc với Trung Tá Phước, Phó Đô Trưởng Nội An. Trung Tá Phước cho biết tình hình vẫn yên tỉnh. Ông đã gọi ông Bửu Thọ, Tổng Giám Đốc Đài Phát Thanh Sài Gòn, và dặn nếu quân đảo chánh xâm nhập, phải cho phá đài phát thanh ngay. Trước tình trạng này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã điện thoại cho Đại Sứ Cabot Lodge cho biết ông vừa nghe tin có đảo chánh và xin ông Đại Sứ cho biết tin đó có đúng không. Đại Sứ Lodge trả lời rằng xin Tổng Thống cứ yên tâm, không hề có chuyện đó. Nếu có tin gì, ông sẽ cho Tổng Thống biết ngay. Lúc 2 giờ 30 chiều, đài phát thanh bổng im lặng. Ông Vĩ liền gọi đến đài phát thanh, nhưng không ai trả lời. Có lẽ lúc đó Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống đang giao tranh với Thủy Quân Lục Chiến, vì đang nghe tiếng súng ở phía đó. Tổng Thống Ngô Đình Diệm liền gọi lại cho Đại Sứ Lodge lần thứ hai. Đại Sứ Lodge cầm điện thoại lên ngay. Tổng Thống Diệm cho biết ông đã nghe tiếng súng, yêu cầu ông Đại Sứ cho biết tin tức. Ông Lodge quả quyết không có chuyện gì xẩy ra cả. Tổng Thống Diệm yêu cầu ông Lodge liên lạc với cơ quan MACV xem sao. Ông Lodge vẫn quả quyết không có chuyện gì xẩy ra. Lúc 4 giờ 45, đài phát thanh Sài Gòn bắt đầu loan tin Quân Đội đã đứng lên lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Hội Đồng Tướng Lãnh yêu cầu ông Diệm từ chức và cùng ông Nhu rời khỏi Việt Nam. Khi biết chắc một số tướng lãnh đã đứng ra làm đảo chánh, ông Nhu bảo Trung Tá Hùng gọi cho Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, xem tình hình ra sao. Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mữu Trưởng Liên Binh Phòng Vệ cầm điện thoại trả lời và cho biết Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Liên Binh, đã đi họp tại Bộ Tổng Tham Mưu nhưng không thấy về. Về tình hình, Thiếu Tá Duệ trình rằng Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm đài phát thanh và bắt đầu bắn vào thành Cộng Hòa. Trung Tá Hùng yêu cầu Thiếu Tá Duệ cho biết tình hình của Liên Binh Phòng Vệ, Thiếu Tá Duệ cho biết Liên Binh có khoảng 2 tiểu đoàn gồm khoảng 1500 quân, chia ra thành 6 đại đội, đang đóng rãi rác ở Sở Thú, thành Cộng Hòa, Dinh Độc Lập và vườn Tao Đàn. Ngoài ra, Liên Binh còn có một Liên Chi Đoàn Thiết Giáp, một Đại Đội Phòng Không và một Đại Đội Truyền Tin. Ông Nhu ra lệnh cho Thiếu Tá Duệ thay Trung Tá Khôi chỉ huy Liên Binh. Trung Tá Hùng gọi điện thoại cho Thiếu Tá Phạm Văn Phú, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 77 thuộc Sở Liên Lạc và hỏi có quân không. Thiếu Tá Phú cho biết không còn đại đội nào cả, vì trong những tuần qua, Bộ Tổng Tham Mưu đã ra lệnh giao các đại đội của Liên Đoàn cho Tướng Tôn Thất Đính xử dụng vào các cuộc hành quân. Khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Ngô Đình Nhu và ông Cao Xuân Vĩ đi xuống hầm trú ẩn ở dưới Dinh Gia Long, Thiếu Tá Duệ gọi đến và yêu cầu cho mở cuộc hành quân tiến chiếm Bộ Tổng Tham Mưu. Sau đó, Thiếu Tá Phạm Văn Phú gọi vào cho biết có một đại đội biệt kích mới đi hành quân trở về. Anh Đại Đội Trưởng đề nghị cho mở cuộc hành quân vào Bộ Tổng Tham Mưu xúc hết các tướng đảo chánh. Theo kế hoạch của anh, một đơn vị của Liên Binh Phòng Vệ sẽ đánh nghi binh lên mặt tiền Bộ Tổng Tham Mưu, còn anh sẽ dẫn đại đội của anh đánh bọc hậu phía sau, tiến vào bắt hết các tướng đảo chánh. Ông Cao Xuân Vĩ trình các đề nghị này lên Tổng Thống Diệm thì Tổng Thống Diệm quát tháo om sòm và nói: “Tôi là Tổng Tư Lệnh Quân Đội, tôi không thể ra lệnh cho quân đội đánh quân đội được. Hãy để quân đội đi đánh Việt Cộng”. Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối dùng quân sự để chống đảo chánh, ông Cao Xuân Vĩ nghĩ rằng có thể dùng lực lượng quần chúng để chống đảo chánh. Ông liền gọi cho ông Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công, một đảng viên Đảng Cần Lao, nhưng không ai trả lời. Ông Vĩ lại gọi cho ông Lê Mỹ, người lãnh đạo các công nhân khuân vác ở thương cảng Sài Gòn, nhưng cũng không gặp. Sau này ông mới biết ông Trần Quốc Bửu đã hợp tác với CIA. Khoảng 5 giời chiều, Tổng Thống Ngô Đình Diệm gọi điện thoại cho ông Cabot Lodge lần thứ ba, cho biết một số tướng lãnh phản loạn đang họp ở Bộ Tổng Tham Mưu để làm đảo chánh lật đổ chính phủ. Ông yêu cầu ông Lodge cho biết quan điểm của chính phủ Hoa Kỳ về cuộc đảo chánh này. Ông Lodge nói rằng ông cũng có nghe tiếng súng nổ, nhưng không biết hết sự kiện. Vã lại, lúc này là 4 giờ sáng ở Hoa Thịnh Đốn, chính phủ Mỹ không thể có một quan điểm. Ông Vĩ điện thoại cho Trung Tá Phước ở Tòa Đô Chánh, yêu cầu dời bộ tham mưu tiền phương vào trung tâm xã hội ở Đại Thế Giới, Chợ Lớn. Sau đó ông cùng với ông Ngô Đình Nhu tìm một giải pháp. Lúc đầu, ông Vĩ đề nghị để Tổng Thống Diệm lại trong Dinh, còn ông và ông Nhu ra khỏi Dinh để có thể giải cứu cho nhau. Nhưng Tổng Thống Diệm bác ngay. Ông Diệm sợ ông Nhu khi rời khỏi ông sẽ bị giết. Ông Nhu đề nghị cả hai cùng đi. Ông Diệm liền hỏi: “Đi mô?” Trước hết, ông Nhu đề nghị đến ẩn náu tại Tòa Khâm Sứ của Tòa Thánh Vatican ở đường Hai Bà Trưng. Ông Diệm trả lời không được. Theo ông, không nên gây khó khăn cho Tòa Thánh. Ông Nhu đề nghị tới Tòa Đại Sứ Úc. Ông Diệm bảo đừng tin vào những Tòa Đại Sứ Tây Phương. Ông Nhu đề nghị đến Tòa Đại Sứ Nhật, ông Diệm bảo Nhật không có tốt với mình đâu, ông đã có quá nhiều kinh nghiệm với Nhật rồi. Cuối cùng, ông Nhu đề nghị đến Tòa Đại Sứ Đài Loan. Ông Diệm cho rằng mình mới ban hành nhiều biện pháp đối với người Hoa, bây giờ đến đó coi sao được. Nói tóm lại, ông Diệm không muốn rời Dinh Gia Long nên tìm cách bác bỏ các đề nghị của ông Nhu. Ông Cao Xuân Vĩ đề nghị với ông Nhu hoặc đi lên Cao Nguyên với Tướng Nguyễn Khánh, hoặc đi xuống miền Tây với Đại Tá Bùi Dinh. Ông Nhu bảo ông Vĩ đi xem tình hình xem như thế nào. Ông Vĩ lái xe đi một vòng thì thấy không thể đi đường bộ được, vì quân đảo chánh đã chận ở Phú Lâm và cầu xa lộ Biên Hòa rối. Ông Vĩ nghĩ rằng có thể đi bằng ghe xuống miền Tây, nhưng trong khi chờ đợi tìm ghe để đi, phải rời khỏi Dinh Gia Long ngay lập tức. Ông Nhu vào trình với ông Diệm rằng phải ra khỏi Dinh Gia Long, vì tình thế rất nguy hiểm. Ông Diệm nói rằng làm Tổng Thống không thể đi trốn được. Ông Nhu giải thích rằng mình không đi trốn, đây chỉ là “dịch cư” để bảo đảm an ninh rồi trở về lại mà thôi. Ông Nhu thuyết phục ông Diệm rằng trên nguyên tắc, một cuộc đảo chánh nếu trong 48 giờ không thành công, sẽ thất bại. Mình chỉ rời khỏi Dinh một thời gian thôi. Ông Diệm làm thinh. Bổng ông Cabot Lodge gọi đến nói rằng ông lo cho sự an toàn của Tổng Thống. Ông nói nếu ông có thể làm gì cho sự an toàn của Tổng Thống, xin cứ gọi ông. Ông Diệm liền trả lời: “Tôi đang cố gắng tái lập trật tự”. Như vậy, khi ở Dinh Gia Long, Tổng Thống Diệm đã gọi ông Cabot Lodge tất cả ba lần, và ông Lodge đã gọi cho Tổng Thống Diệm một lần. Nhưng trong hồ sơ, ông Lodge nói ông Diệm chỉ gọi cho ông một lần mà thôi. Trong cuốn “Lodge in Vietnam” bà Blair có cho biết khi cuộc đảo chánh bắt đầu, ông Lodge đã ra đứng ngoài hành lang điều khiển, để những mệnh lệnh của ông không bị ghi băng!

4.- ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC!

Sau khi nói chuyện với ông Cabot Lodge, ông Diệm cho gọi ông Nhu vào và bảo: “Đi thì đi!” Chuyện xẩy ra quá bất ngờ nên ông Cao Xuân Vĩ trở tay không kịp. Ông liền gọi điện thoại cho Trung Tá Phước bảo đem đến Tòa Đô Chánh ngay một chiếc xe. Trung Tá Phước tưởng ông Vĩ cần xe chờ đồ nên cho Đại Úy Hưng lái một chiếc xe fourgonnette (xe chở hàng nhỏ – truck) đến. Ông Vĩ bảo tắt máy xe rồi cùng Đại Úy Hưng đẩy băng qua đường Pasteur, vào cửa bên hông của Dinh Gia Long. Khi xe đến, ông Vĩ vào báo cho ông Diệm và ông Nhu biết. Ông Diệm bảo Đại Úy Bằng lên lấy chiếc cặp cho ông. Khi ra xe, ông Diệm lầu bầu: “ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC!”. Không ngờ lời nói đó đã trở thành một lời tiên tri! Vì xe fourgonnette là loại xe chở hàng nên ở thùng sau không có ghế ngồi, nhưng hai ông cũng bước lên và ngồi giữa sàn xe. Đại Úy Bằng muốn đi theo, nhưng Đại Úy Đỗ Thọ, cháu Đỗ Mậu, tình nguyện đi. Ông Cao Xuân Vĩ vội chạy vào Dinh lấy cái nệm cho hai ông ngồi, nhưng khi trở ra thì xe đã chạy mất rồi. Lúc đó là khoảng 7 giờ 30 tối. Xe ra ngả đường Pasteur, xuống đường Lê Lợi, qua đường Trần Hưng Đạo, đến Đồng Khánh rồi vào khu Đại Thế Giới, nơi đặt bộ tư lệnh tiền phương của Trung Tá Phước. 

 Ông Mã Tuyên, ảnh dưới chụp năm 1993.

Ông Cao Xuân Vĩ gọi cho ông Mã Tuyên, một Tổng Bang Trưởng của người Hoa và là Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa ở Chợ Lớn, nhờ tìm nơi tạm trú cho Tổng Thống. Ông Mã Tuyên nhận lời ngay, mặc dầu ông chưa bao giờ gặp mặt ông Diệm và ông Nhu. Không ai biết Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã rời Dinh Gia Long, ngoài Đại Úy Bằng, nên mọi người cứ tưởng ông Diệm và ông Nhu vẫn còn ở trong Dinh. Ông Cao Xuân Vĩ gọi ông Lê Mỹ ở thương cảng mua thực phẩm tiếp tế cho các binh sĩ trong Dinh trước khi ra đi. Lúc đó, lực lượng trong Dinh có một Đại Đội An Ninh Phủ Tổng Thống do Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc chỉ huy. Bên ngoài, Liên Binh Phòng Vệ do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mưu Trưởng, và Thiếu Tá Phan Văn Hưởng, Tham Mưu Phó chỉ huy. Sau này Tướng Nguyễn Văn Thiệu nói rằng nếu ông Diệm không trình diện, phải có ít nhất 3 trung đoàn mới có thể chiếm được Dinh Gia Long. Thu xếp xong công việc, ông Cao Xuân Vĩ vào Đại Thế Giới thì ông Diệm và ông Nhu đã vào nhà Mã Tuyên rồi.

5.- TỰ QUYẾT ĐỊNH SỐ MỆNH

Ông Cao Xuân Vĩ đến nhà Mã Tuyên thì ông Mã Tuyên cho biết Tổng Thống và ông Cố Vấn đang ở trên lầu. Ông Cao Xuân Vĩ nói với ông Mã Tuyên rằng không thể ở đây lâu được vì thế nào cũng sẽ bị phát hiện. Phải tìm một nơi nào an toàn hơn. Ông Mã Tuyên liên lạc với những người Hoa rồi cho biết đã tìm được hai kho hàng trống ở Bến Bình Đông và đang cho dọn dẹp sạch sẽ. Ông Cao Xuân Vĩ dự trù vào lúc 6 giờ sáng, khi giờ giới nghiêm chấm dứt, sẽ cho xe đưa Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu đến đó. Sau này ông Mã Tuyên cho biết, suốt cả đêm hai ông không ngủ, cứ gọi điện thoại cho hết chỗ này đến chỗ kia, và bàn định công việc. Đúng 6 giờ sáng, khi vừa hết giờ giới nghiêm, ông Cao Xuân Vĩ đến nhà Mã Tuyên thì ông Mã Tuyên cho biết Tổng Thống và Cố Vấn đã đi vào xem lễ ở nhà thờ Cha Tam, cuối đường Đồng Khánh. Sau này người ta được biết ông Diệm nhất định không chịu đi theo kế hoạch của ông Cao Xuân Vĩ. Ông nói rằng “Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (Thà chết chứ không chịu nhục). Theo ông, “Tổng Thống không có đi trồn”! Ông ra lệnh cho Liên Binh Phòng Vệ buông súng rồi gọi điện thoại báo tin cho ông Cabot Lodge biết ông bằng lòng từ chức và đi ra ngoại quốc. Trước khi tin cho các tướng đảo chánh biết, ông đến nhà thờ để dự lễ và cầu nguyện. Ông Diệm không ngờ quyết định này là quyết định chấm dứt cuộc đời của ông. Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Tướng Trần Văn Đôn cho biết, Lucien Conein, người điều khiển trực tiếp cuộc đảo chánh, đã nói với các tướng đảo chánh bằng tiến Pháp: “On ne fait pas d’omelette sans casser les oeufs.” Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng. (trang 228) Quyết định này của ông Diệm cũng là quyết định về số phận của miền Nam Việt Nam. Sau khi ông Diệm bị lật đổ, người Mỹ đã nắm chủ quyền tại miền Nam Việt Nam và dùng miền Nam làm công cụ phục vụ quyền lợi của tư bản Mỹ. Trong tác phẩm “President Kennedy, Profile of Power”, sử gia Richard Reeves đã ghi lại như sau: “Người Mỹ, vì các mục tiêu thực tế, đã cai quản đất nước. Các tướng lãnh Việt Nam cười trước các máy quay phim, nhưng lo lắng và chờ đợi tiền và chỉ thị từ Washington, thủ đô mới của miền Nam Việt Nam.” (trang 651) Cũng có nhận định tương tự, trong cuốn “The Vietnam War, 1945 – 1990”, Marilin B. Young nói rằng ông Diệm đã làm hỏng chính sách của Hoa Kỳ về phương diện chiến thuật nên được Hoa Kỳ thay thế bằng một nhóm tướng lãnh. Khác với ông Diệm, họ lệ thuộc vào Hoa Kỳ và vì thế sẵn sàng theo những lời cố vấn. Những nhân viên tình báo của CIA như Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm và Đặng Văn Quang, được Hoa Kỳ đưa ra lãnh đạo miền Nam, đã để mất chủ quyền quốc gia, đưa miền Nam đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tú Gàn

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Trang Ong Vò Vẽ


Trận Ðánh Ðẫm Máu Nhứt Trong Chiến Tranh Việt Nam – Lâm Vĩnh Thế

.
 

Bài đọc suy ngẫm: Trận đánh đẫm máu với những tổn thất lớn về nhân mạng tại Cổ thành Quảng Trị năm 1972 và tầm quan trọng về mặt chính trị cho các phía trong chiến tranh Việt Nam. Tác giả Lâm Vĩnh Thế.

 Hình Trung tướng Ngô quang Trưởng và một phi tuần B-52 đang “trải thảm” tại mặt trận Quảng Trị — Nguồn: Internet

Tái Chiếm Quảng Trị: Trận Ðánh Ðẫm Máu Nhứt Trong Chiến Tranh Việt Nam

Ngày 30-3-1972, 3 sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) vượt Khu Phi Quân Sự (tiếng Anh gọi là DeMilitarized Zone, viết tắt là DMZ), tấn công vào các căn cứ phòng thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) ở phía Bắc và phía Tây của tỉnh Quảng Trị thuộc Vùng I.  Cuộc Tổng Tấn Công 1972, mà giới truyền thông Hoa Kỳ gọi là The Easter Offensive thật sự bắt đầu.  Ba ngày sau, 3 sư đoàn khác của CSBV tấn công vào An Lộc, tỉnh lỵ của tỉnh BÌnh Long ở Vùng III, cách Sài Gòn 60 km về hướng Bắc.  Và ngày 14-4-1972, tỉnh Kontum thuộc Vùng II cũng bị 2 sư đoàn CSBV tấn công.   Tại vùng I, ngày 2-5-1972, tỉnh Quảng Trị lọt vào tay quân CSBV sau khi Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh của QLVNCH, quyết định rút khỏi căn cứ Cổ Thành Quảng Trị (có tên là Cổ Thành Ðinh Công Tráng).  Phía Bắc tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế bị đe dọa nặng nề.  Ngày hôm sau, 3-5-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng,[1] đang là Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, thay thế Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm trong chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn I.  Ngay chiều hôm đó, cùng với một số sĩ quan thân cận trong bộ tham mưu của mình, Tướng Trưởng bay ngay ra Huế.  Từ phi trường Phú Bài, tin “Tướng Trưởng đã về” loan truyền đi nhanh chóng và thành phố Huế như được hồi sinh.  Sau một thời gian cấp tốc ổn định tình hình tại Huế, Tướng Trưởng tổ chức cuộc hành quân lấy tên là Chiến Dịch Lam Sơn 72 nhằm phản công để tái chiếm Quảng Trị.  Chiến Dịch Lam Sơn 72 chính thức kết thúc khi QLVNCH đã toàn thắng và chiếm lại được Cổ Thành Quảng Trị vào ngày 15-9-1972.  Bài viết này cố gắng ghi lại phần nào diễn tiến của trận đánh này: trận đánh đẩm máu nhứt trong suốt thời gian kéo dài 20 năm của Chiến Tranh Việt Nam.

Tầm Quan Trọng về Chính Trị của Trận Ðánh

Khi ông Richard M. Nixon nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ vào tháng 1-1969, Hoa Kỳ đang có trên nửa triệu quân tại VNCH, với 31.000 quân đã tử trận, và Chiến Tranh Việt Nam đã trở thành mối chia rẽ trầm trọng nhứt trong dân chúng Mỹ kể từ khi cuộc Nội Chiến (Civil War, 1861-1865) chấm dứt cách đó hơn một trăm năm.  Tổng Thống Nixon phải tìm cách làm thế nào để Hoa Kỳ có thể rút ra khỏi cuộc chiến mà không mang tiếng là bỏ rơi đồng minh VNCH.  Giải pháp ông tìm ra được gọi là chính sách Việt-Nam-hóa chiến tranh (Vietnamization of the War): rút quân Mỹ ra khỏi Miền Nam từ từ, theo từng đợt, có kế hoạch, song song với việc chuẩn bị cho QLVNCH có thể tự đảm nhận hoàn toàn trách nhiệm trong cuộc chiến tự vệ này.  Cuộc thử lửa đầu tiên của chính sách này là cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 (tháng 2 và 3-1971) của QLVNCH tấn công sang Lào, nhắm phá hủy các căn cứ hậu cần trên đường mòn Hồ Chí Minh của CSBV.  QLVNCH có đạt được một số mục tiêu của cuộc hành quân này nhưng cũng đã phải trả một giá khá đắt với nhiều tổn thất nặng nề.  Miền Bắc thì cho rằng họ đã đánh bại QLVNCH và, như vậy, chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Nixon đã thất bại.  Cuộc Tổng Tấn Công Mùa Hè 1972 lần này của Bắc Việt là để cho cả thế giới thấy rõ sự thất bại hoàn toàn, không thể chối cải được, của chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ.

Từ giữa năm 1968, sau cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân, Mỹ và Bắc Việt, và sau đó cả VNCH và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đã bất đầu hòa đàm tại Paris.  Cuộc thương thuyết đã kéo dài 4 năm và đang đi đến giai đoạn phải kết thúc.  Cả 2 phe lâm chiến đều muốn chiếm thế thượng phong trên mặt trận quân sự để có lợi thế trong mặt trận ngoại giao.  Trận Quảng Trị trở thành một ván bài hết sức quan trọng mà cả hai phe đều muốn thắng.

Về phía VNCH và Hoa Kỳ, bằng mọi giá, phải tái chiếm Quảng Trị.  Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn I, đã được giao cho sử dụng những đơn vị thiện chiến nhứt của QLVNCH.  Hoa Kỳ cũng muốn thấy QLVNCH tái chiếm Quảng Trị, nên đã cố gắng hết sức hỗ trợ phi pháo cho QLVNCH trên chiến trường.  Chưa bao giờ sự yểm trợ phi pháo của Hoa Kỳ được thực hiện với một cường độ ác liệt như vậy.  Ngoài việc yểm trợ tối đa bằng đại pháo cũng như phi cơ oanh kích từ các chiến hạm của Hạm Ðội Thái Bình Dương ở ngoài khơi Biển Ðông còn có cả những phi vụ “trải thảm” liên tục bằng phi cơ chiến lược B-52 xuất phát từ căn cứ Andersen ở đảo Guam và căn cứ U-Tapao ở Thái Lan.  Thống kê của Không Quân Mỹ cho thấy, chỉ nội trong 3 tháng 4-5-6/1972, tại mặt trận Quảng Trị, đã có tất cả 2.700 phi vụ B-52, với tổng số bom đã trải thảm là 57.000 tấn.[2]  Về Hải Quân Hoa Kỳ, lực lượng tham chiến lúc đó là Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm 77 (Task Force 77) thuộc Ðệ Thất Hạm Ðội, với 2 hàng không mẫu hạm Hancock và Coral Sea (về sau tăng cường thêm 4 hàng không mẫu hạm nữa là Kitty Hawk, Constellation, Midway và Saratoga) và rất nhiều khu trục hạm và tuần dương hạm.  Mỗi hàng không mẫu hạm đều có 1 không đoàn (air wing) với khoảng 90 phi cơ phản lực thuộc các loại F4 (Phantom), A7 (Corsair) và A6 (Intruder).[3]  Dĩ nhiên, số thương vong của quân Bắc Việt do những vụ yểm trợ phi pháo này của Hoa Kỳ lên đến mức kinh hoàng.

Về phía Bắc Việt, để chứng tỏ là chính sách Việt Nam hóa hoàn toàn thất bại, bằng mọi giá, phải giữ cho được Quảng Trị; lệnh tử thủ Quảng Trị được Hà Nội áp đặt lên các cấp chỉ huy các lưc lượng đang chiếm giữ Quảng Trị.  Khi Tướng Trưởng ra lệnh bắt đầu Chiến Dịch Lam Sơn 72 để phản công nhằm tái chiếm Quảng Trị vào ngày 28-6-1972 thì Thị xã Quảng Trị và Cổ Thành Ðinh Công Tráng đã nằm trong tay địch gần 2 tháng trời.  Các lực lượng Bắc Viêt đã có quá dư thì giờ để thực hiện và tổ chức các công sự cần thiết cho việc tử thủ này, từ hầm hố, giao thông hào, chướng ngại vật cho đến việc bố trí các trận địa pháo, hỏa tiển, phòng không, vv.  Các đơn vị của Sư Ðoàn Nhảy Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) của QLVNCH phải trả giá bằng máu cho từng thước đất, từng con đường, từng ngôi nhà mà họ chiếm lại.  Chưa bao giờ hai lực lương tổng trừ bị thiện chiến nhứt của QLVNCH đã có số thương vong cao như vậy trong suốt thời gian gần 20 năm của Chiến Tranh Việt Nam.

Tương Quan Lực Lượng Hai Bên

Các lực lượng CSBV bảo vệ Quảng Trị gồm các đơn vị sau đây:

    2 Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 320 B: Trung Ðoàn 48 và Trung Ðoàn Triệu Hải
    1 Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 325: Trung Ðoàn 95
    1 Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 308: Trung Ðoàn 88
    2 Tiểu đoàn địa phương của Quảng Trị
    về sau, khi trận đánh đã diễn ra ác liệt, còn có thêm sự chi viện của các đơn vị còn lại của Sư Ðoàn 325 và Sư Ðoàn 312

Về phía QLVNCH, lực lượng tấn công tái chiếm Quảng Trị gồm có các đơn vị sau đây:

    2 Lữ Ðoàn của Sư Ðoàn Dù: các Lữ Ðoàn 2 và 3
    3 Lữ Ðoàn của Sư Ðoàn TQLC: các Lữ Ðoàn 147, 258 và 369
    Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù
    2 Thiết Ðoàn 7 và 18 của Binh Chủng Thiết Giáp
    các tiểu đoàn pháo binh của hai Sư Ðoàn Dù và TQLC

Về phía Hoa Kỳ, hoàn toàn không có sự tham dự của các lực lượng bộ chiến (ground combat troops) nhưng có sự yểm trợ rất lớn về phi pháo, kể cả B-52.

Kế Hoạch Phản Công của Tướng Trưởng

Kế hoạch phản công để tái chiếm Quảng Trị của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tân Tư Lệnh Quân Ðoàn I, gồm 2 phần chánh:

    Phần I: ổn định tình hình tại Huế
    Phần II: tấn công lên phía Bắc để tái chiếm Quảng Trị

Giữ vững Huế

Sau khi Quảng Trị thất thủ, cùng với việc CSBV truy kích các đơn vị của QLVNCH triệt thoái giữa Quảng Trị và Thừa Thiên, tạo ra Ðại Lộ Kinh Hoàng trên Quốc Lộ 1, thành phố Huế vừa phải gánh chịu áp lực rất nặng của địch từ bên ngoài vừa phải đối phó với tình hình khó khăn bên trong thành phố do việc hàng vạn dân tỵ nạn từ Quảng Trị kéo vào và các tệ nạn do binh sĩ vô kỷ luật của các đơn vị triệt thoái gây nên.

Ðể ổn định tình hình và lòng dân tại thành phố Huế, hành động đầu tiên của Tướng Trưởng là ban ra 2 lệnh hết sức quan trọng: 1) Thiết lập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn I tại phía Bắc thành phố Huế với nhiệm vụ chặn đứng tất cả các cuộc tấn công của quân CSBV; và, 2) Ra lệnh cho tất cả các quân nhân đã bỏ đơn vi, hay lạc đơn vị, hoăc không còn đơn vị, phải lập tức trình diện với các cấp thẩm quyền quân sự trong thành phố; những quân nhân không tuân theo lệnh này sẽ bị bắn bỏ ngay tại chổ.  Chỉ trong vài ngày tình hình an ninh và lòng dân của thành phố Huế được ổn định ngay.

Tướng Trưởng quyết định giao việc phòng thủ phía Bắc của tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế cho 2 đơn vị thiện chiến của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn I.  Sư Ðoàn TQLC, với Tư Lệnh mới là Ðại Tá Bùi Thế Lân,[4] được giao nhiệm vụ phòng thủ phía Bắc và phía Tây Bắc của Huế.  Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, với Tư Lệnh là Thiếu Tướng Phạm Văn Phú [5], chịu trách nhiệm phòng thủ hướng Nam và Tây Nam của Huế, ngăn chận tấn công của quân CSBV từ thung lũng A Shau.[6]

Về phía Bắc của Huế, tuyến phòng thủ của TQLC chạy dài theo bờ Nam của  sông Mỹ Chánh với Lữ Ðoàn 147 bên tả và Lữ Ðoàn 369 bên hữu.  Lữ Ðoàn 147, với Lữ Ðoàn Trưởng là Trung Tá Nguyễn Năng Bảo, gồm 3 tiểu đoàn tác chiến là các Tiểu Ðoàn 1 (Quái Ðiểu), Tiểu Ðoàn 4 (Kình Ngư), Tiểu Ðoàn 7 (Hùm Xám), và Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh TQLC (Lôi Hỏa).  Lữ Ðoàn 369, với Lữ Ðoàn Trưởng là Trung Tá Nguyễn Thế Lương, gồm 3 tiểu đoàn tác chiến là các Tiểu Ðoàn 3 (Sói Biển), Tiểu Ðoàn 6 (Thần Ưng), Tiểu Ðoàn 9 (Mãnh Hổ), và Tiểu Ðoàn 3 Pháo Binh TQLC (Nỏ Thần).  Hai lữ đoàn TQLC này có nhiệm vụ ngăn chận tất cả các cuộc tấn công xuống phía Nam của các đơn vị thuộc 3 sư đoàn CSBV là các Sư Ðoàn 304, Sư Ðoàn 325 và Sư Ðoàn 308.

Về phía Tây và Tây Nam của Huế, các đơn vị của Sư Ðoàn 1 BB của Tướng Phú có nhiệm vụ chặn đứng tất cả các cuộc tấn công của các đơn vị của Sư Ðoàn 324B của CSBV từ Thung lủng A Shau.

Bản đồ phòng thủ Quảng Trị – Thừa Thiên đầu tháng 5-1972

Sau gần 2 tháng tổ chức phòng thủ và ổn định hoàn toàn tình hình mặt trận Huế, Tướng Trưởng chuyển sang thế phản công với mục tiêu tái chiếm Quảng Trị.

Phản công tái chiếm Quảng Trị

Các chuẩn bị trước khi Lam Sơn 72 bắt đầu

Cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị mang tên là Chiến dịch Lam Sơn 72, chính thức khởi sự vào ngày 28-6-1972, và chấm dứt vào ngày 16-9-1972 sau khi TQLC của QLVNCH đã cắm cờ VNCH trên Cổ Thành Quảng Trị.

Vì tầm quan trọng rất lớn của cuộc hành quân phản công này, các cuộc chuẩn bị cho chiến dịch này được thực hiện rất kỷ lưởng, bao gồm tất cả 3 giai đoạn: [7]

    10 ngày đầu của tháng 6-1972: tất cả các đơn vị được rà soát, sắp xếp lại trên toàn mặt trận
    Từ ngày 11 đến ngày 18-6-1972: ở phía Tây, Sư Ðoàn 1 BB mở một cuộc tấn công về hướng căn cứ hỏa lực Veghel; về phía Bắc, các đơn vị Dù và TQLC mở những cuộc hành quân phía Bắc sông Mỹ Chánh để thăm dò lực lượng địch
    Từ ngày 19 đến 27-6-1972: mở 2 cuộc hành quân nhằm mục tiêu đánh lừa địch, quân Dù tấn công vào Cam Lộ, và TQLC đổ bộ vào Cửa Việt

Hai ngày trước khi Chiến dịch Lam Sơn 72 bắt đầu, Tướng Trưởng ra lệnh phát động một cuộc oanh kích rất dữ dội vào các địa điểm đóng quân, các vị trí pháo, cũng như các khu vực hậu cần của địch.  Ngoài các đơn vị phi pháo cơ hữu của QLVNCH, còn có sự tham dự tích cực của các đơn vị phi pháo của Hoa Kỳ, bao gồm cả các pháo hạm ngoài khơi và oanh tạc cơ chiến lược B-52 xuất phát từ Thái Lan (căn cứ U- Tapao) và đảo Guam, như chúng ta thấy trong bản đồ bên dưới đây:

 Bản đồ Quảng Trị Mùa Hè 1972 – Nguồn: Internet

Chiến dịch Lam Sơn 72 thật sự bắt đầu

Ngày 28-6-1972 Chiến dịch Lam Sơn 72 chính thức bắt đầu, với 2 mũi tấn công chính về hướng Bắc, phối hợp với một mũi phụ về hướng Tây Nam Huế.  Vì xuất thân là một sĩ quan Nhảy Dù (chức vụ đầu tiên trong binh nghiệp của ông, vào tháng 7-1954, là một Thiếu Úy Trung Ðội Trưởng của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù [8]), Tướng Trưởng quyết định giao cho Sư Ðoàn Nhảy Dù làm mũi tấn công chính trong cuộc hành quân quan trong này.  Hướng tấn công của Sư Ðoàn Dù là phía Tây Nam Quốc Lộ 1, tiến về phía La Vang.  Mũi tấn công thứ nhì ở phía Bắc được giao cho Sư Ðoàn TQLC, dọc theo hương lộ 555, tiến về phía Triệu Phong.  Mũi tấn công phía Tây Nam Huế là trách nhiệm của Sư Ðoàn 1 BB.  Phía Nam đèo Hải Vân, trách nhiệm bảo vệ Ðà Nẳng được giao cho Sư Ðoàn 3 BB đang được tái thiết và tái huấn luyện dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh mới là Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh.[9]

Cuộc phản công hướng về phía Bắc với hai Sư Ðoàn Dù và TQLC, với mục tiêu là chiếm lại cho được Quảng Trị, có thể được xem như gồm 2 đợt:

    Đợt 1: từ ngày 28-6-1972 đến ngày 27-7-1972 với Sư Ðoàn Dù là lực lượng chính
    Ðợt 2: từ ngày 27-7-1972 đến ngày 16-9-1972 khi toàn thắng, chiếm lại được Cổ Thành Ðinh Công Tráng (Quảng Trị), với Sư Ðoàn TQLC là lực lượng chính.

Ðợt 1 của cuộc tấn công với Sư Ðoàn Dù


Sau khi nhận nhiệm vụ tại Quân Ðoàn 1, Tướng Trưởng đã yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu tăng viện cho ông để trám vào sự mất mát của Sư Ðoàn 3 BB, và đã được tăng viện 2 Lữ Ðoàn của Sư Ðoàn Dù.  Lữ Ðoàn 2, với Lữ Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Trần Quốc LỊch (về sau thăng lên Chuẩn Tướng, làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh[10]), đến Huế vào ngày 8-5-1972 và được Tướng Trưởng điều động lên ngay mặt trận phía Bắc, trấn giữ phòng tuyến dọc bờ Nam của sông Mỹ Chánh, cùng với Lữ Ðoàn 258 (với Lữ Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh) của Sư Ðoàn TQLC.  Lữ Ðoàn 3, với Lữ Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Trương Vĩnh Phước, cũng được tăng viện cho Vùng I vào ngày 22-5-1972.  Ngay sau đó, Bộ Chỉ Huy của Sư Ðoàn Dù, với Tư Lệnh là Trung Tướng Dư Quốc Ðống, cũng bay ra Vùng I, và đặt tại Bải Ðổ Quân Sally (Landing Zone (LZ) Sally) ở phía Nam Sông Bồ, ngay bên cạnh Quốc Lộ 1.[11]

Bản đồ vị trí của LZ Sally tại Quảng Trị – Nguồn: Internet
3 giờ sáng ngày 28-6-1972, Ðại Tá Trần Quốc Lịch điều động 3 tiểu đoàn của Lữ Ðoàn vượt sông Mỹ Chánh tấn công lên phía Bắc: Tiểu Ðoàn 2 do Thiếu Tá Nguyễn Ðình Ngọc làm Tiểu Ðoàn Trưởng đi cánh trái, Tiểu Ðoàn 1 do Thiếu Tá Lê Hồng làm Tiểu Ðoàn Trưởng đi giữa, và Tiểu Ðoàn 3 do Thiếu Tá Trần Văn Sơn làm Tiểu Ðoàn Trưởng đi cánh phải.  Nhờ yếu tố bất ngờ, các tiểu đoàn Dù này đã đạt được những kết quả rất khích lệ, phá được phòng tuyến của quân Bắc Việt, tấn công thẳng vào Bộ Chỉ Huy của Trung Ðoàn chiến xa 203 của địch, tịch thu được nhiều vũ khí nặng (như súng cối 61 và 82 ly, súng phòng không 37 và 57 ly) và luôn cả 3 chiến xa T54 của địch.  Các lực lượng Dù tiếp tục tiến lên phía Bắc, và sau đó Tiểu Ðoàn 3 mở mũi dùi tấn công về phía Ðông nhằm tái chiếm quận Hải Lăng.  Rạng sáng cùng ngày, thêm hai Tiểu Ðoàn Dù nữa là Tiểu Ðoàn 9 (với Tiểu Ðoàn Trưởng là Trung Tá Trần Hữu Phú) và Tiểu Ðoàn 11 (với Tiều Ðoàn Trưởng là Thiếu Tá Lê Văn Mễ) được trực thăng vận đổ xuống phía Bắc sông Nhung.  Hai tiểu đoàn này cùng đi song song, tiến lên phía Bắc và nhổ hết tất cả các chốt của địch.  Chắc chắn đã đoán được mục tiêu của cuộc phản công này của QLVNCH là nhắm vào việc chiếm lại Quảng Trị, địch quân đã chống cự rất mãnh liệt, với những cuộc pháo kích liên tục bằng đại pháo 122 ly và 130 ly cũng như hỏa tiển 107 ly, gây thương vọng rất nặng nề cho các tiểu đoàn Dù.  Một thí dụ điển hình là trận Tân Lê Phước Môn, tất cả 4 đại đội trưởng của Tiều Ðoàn 9 đều bị thương, với Ðại Úy Ngưu, Ðại Ðội Trưởng của Ðại Ðội 94 bị tử thương.  Sau nhiều trận kịch chiến với quân Bắc Việt trong khoảng 10 ngày, Tiểu Ðoàn 3 Dù chiếm lại được quận Hải Lăng vào 4 giờ chiều ngày 7-7-1972.  Trong trận này, Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Trần Văn Sơn bị thương nặng và được thay thế bởi Thiếu Tá Võ Thanh Ðồng, Tiểu Ðoàn Phó của Tiểu Ðoàn 9 Dù.[12]  Với Hải Lăng được tái chiếm, con đường tiến lên phía Bắc hướng về Cổ Thành Quảng Trị của các đơn vị QLVNCH đã được rút ngắn rất nhiều nhưng việc tiến quân hoàn toàn không dễ dàng hơn một chút nào hết. Còn ngược lại nữa là khác.  Lý do thật đơn giản: các lực lượng địch chiếm giữ Quảng Trị đã nhận được lệnh tử thủ.  Trọn 3 tuần lễ, từ ngày 7-7 đến ngày 27-7-1972, các tiểu đoàn Dù (tăng cường thêm với Tiểu Ðoàn 5 vừa giải tỏa xong An Lộc) đã tiến rất chậm trong phần đất rất ngắn giữa sông Nhung và sông Thạch Hãn vì sự chống trả mãnh liệt của địch.  Chỉ sau khi phi cơ B-52 trải thảm dọc bờ Bắc sông Thạch Hãn, Tiểu Ðoàn 5 mới vượt được sông Thạch Hãn, tiến vào đóng quân tại khu vực của thôn An Thái, chỉ còn cách Cổ Thành Ðinh Công Tráng độ 3 km về phía Tây Nam.  Trận đánh tái chiếm Thị xã Quảng Trị và Cổ Thành Ðinh Công Tráng của các tiểu đoàn Dù thật sự bắt đầu vào ngày 17-7-1972 với các cánh quân được bố trí như sau:

    Tiểu Ðoàn 7 phía Tây Thị xã
    Tiểu Ðoàn 11 từ bờ sông Thạch Hãn đến ngã ba Long Hưng
    Tiểu Ðoàn 9 phía Nam Thị xã
    Tiểu Ðoàn 6 phía Ðông Thị xã
    Tiểu Ðoàn 5 là lực lượng chính tấn công vào Cổ Thành Ðinh Công Tráng

Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn 5 Dù, quyết định ngày hôm sau, 18-7-1972, toàn bộ tiểu đoàn sẽ đồng loạt tấn công vào Cổ Thành, với mục tiêu là nội trong 2 ngày phải chiếm cho được ít nhứt là phân nữa chu vi bờ thành.

Cổ Thành Đinh Công Tráng được xây dựng vào năm 1823 thời vua Minh Mạng.  Lúc mới xây thành làm bằng đất; đến năm 1838 thì mới được xây lại bằng gạch.  Thành hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 500 m, nên chu vi của thành gần 2000 m.  Tường thành cao 9,4 m, dưới chân dày 12 m.  Bao quanh thành có hào rộng 4 m, sâu 8 m, bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài.  Khi trận Quảng Trị bắt đầu vào ngày 30-3-1972 thì trong Cổ Thành là bản doanh của tiểu khu Quảng Trị và Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ Binh của QLVNCH (Bộ chỉ huy Tiền phương của Sư Ðoàn 3 thì đóng ở căn cứ Ái Tử). [13]

Không ảnh Cổ Thành Ðinh Công Tráng năm 1967 – Nguồn: Internet
Với quy mô kiên cố của thành như vậy, với quyết tâm tử thủ của các lực lượng địch chống giữ thành, cùng với sự yểm trợ tối đa của các đơn vị chiến xa, pháo binh, và phòng không của địch, các cánh quân Dù đã bị tổn thất rất nặng nề với những số thương vong rất lớn.  Nhưng ngược lại với các đợt oanh kích phi pháo của hải quân và không quân Hoa Kỳ (máy bay B-52 trải thảm), quân Bắc Việt cũng phải trả giá rất đắt trong việc chống giữ Cổ Thành Ðinh Công Tráng.

Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 5 Dù, lực lượng tấn công chinh, chỉ định Ðại Ðội 51, với Ðại Úy Trương Ðăng Sỹ làm Ðại Ðội Trưởng, và Ðại Ðội 52, với Trung Úy Hồ Tường làm Ðại Ðội Trưởng, cùng song song tiến lên trước.  Cuộc tiến quân vô cùng khó khăn vì sự chống trả quyết liệt của địch.  Ta hảy nghe lời kể lại cuộc tiến quân của chính Ðại Úy Sỹ (về sau thăng cấp lên Thiếu Tá) như sau:[14]

Từ làng Trí Bưu, về hướng Tây Bắc, mục tiêu kế tiếp là Nhà Thờ Trí Bưu. Tôi và Hồ Tường song song bung đội hình từng bước tiến lên, nhường làng Trí Bưu lại cho Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn. Đoạn đường từ đây đến Nhà Thờ Trí Bưu khoảng vài trăm thước cũng không phải dễ đi …

Tôi đã xử dụng tất cả hỏa lực yểm trợ: 18 khẩu 105 ly, cơ hữu Nhảy Dù, 4 khẩu 155 ly, 2 khẩu 175 ly của Quân đoàn 1…

Ngày nào cũng có ít nhất hai phi tuần oanh tạc. Ban đêm, thỉnh thoảng còn được hải pháo từ Đệ nhất hạm đội bắn yểm trợ. Nếu cần thiết, còn được 18 khẩu 105 ly của Thủy quân Lục chiến tăng cường. Ngày nào ít lắm cũng có một hay hai lần bắn “T.O.T”.

Có lúc chúng tôi phải tiến quân trong mưa bụi của pháo binh, mục đích không cho địch quân ngóc đầu khỏi hố. Tôi áp dụng chiến thuật từng bước nhảy vọt. Hồ Tường tiến tới từ 50 đến 100m thì dừng lại bố trí, 51 tiến lên qua mặt 52, rồi lại tiến lên 50m đến 100m dừng lại hầm hố bố trí, cứ thế tiến dần …

Nhưng sức kháng cự của địch quân còn quá mạnh, nhất là bên cánh phải còn khu làng nhỏ sát bờ sông Thạch Hãn, địch bắn qua quá rát. Ban đêm đôi lúc chúng tôi còn nghe cả tiếng chiến xa địch.


Trước thực tế chiến trường như vậy, nhiều đơn vị đã được tăng phái cho mũi dùi tấn công của hai Ðại Ðội 51 và 52 của Tiểu Ðoàn 5 Dù:

    Ðại Ðội 2 Trinh Sát của Sư Ðoàn Dù
    1 đại đội của Tiểu Ðoàn 11 Dù (Tiểu Ðoàn “Song Kiếm Trấn Ải”)
    2 đại đội của Lữ Ðoàn 81 Biệt Kích Dù (vừa giải vây An Lộc xong, nổi tiếng với 2 câu thơ ca tụng của người dân An Lộc như sau: “An Lộc địa sử ghi chiến tích, Biệt Kích Dù vị quốc vong thân”)

Mặc dù đã được tăng viện như thế, mũi dùi tấn công Cổ Thành Ðinh Công Tráng của các đơn vị Nhảy Dù vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn vì sức chống trả điên cuồng của địch.  Ðại Úy Sỹ đã 2 lần cố gắng tạo cơ hội cho đơn vị của mình dựng quốc kỳ VNCH trên Cổ Thành nhưng cả 2 lần đều không kéo dài được lâu.  Lần thứ nhứt, ông sử dụng một toán cảm tử gồm 8 binh sĩ, với Hạ sĩ nhứt Trần Tâm làm trưởng toán, và Binh nhứt Hồ Khang, một người sinh trưởng và lớn lên tại Quảng Trị, sẽ có nhiệm vụ dựng cờ.  Toán cảm tử xuất phát lúc nửa đêm, và đến sáng sớm thì họ thành công dựng được quốc kỳ VNCH, nhưng lập tức địch tập trung pháo dữ dội vào địa điểm dựng cờ.  Hai Ðại Ðội 51 và 52 tiến lên ngay để tiếp cứu toán cảm tử.  Khi đến gần bờ thành, họ không thể tiến được nữa vì bị hào thành rộng gần 10 m ngăn chận.  Ðêm hôm đó, Ðại Úy Sỹ được trinh sát báo cho biết 4 binh sĩ trong toán cảm tử đã bị tử thương, số còn lại bị mất tích.  Sáng hôm sau, ông cho gọi một phi tuần máy bay khu trục A1 Skyraider của Không Quân VNCH đến dội bom, đánh sập được một góc tường thành, lấp được khoảng hào thành đó.  Các đơn vị Dù vượt qua hào, tiến vào chiếm và bám chặt góc tường thành đã bị đánh sụp đó.  Ðại Úy Sỹ cho dựng cờ VNCH lần thứ hai, nhưng ngay lúc đó một phi tuần phản lực cơ A37 oanh kích lầm vào các đon vị Dù gây thương vong cho hơn phân nửa các dơn vị Dù.  Cuộc tấn công của Tiểu Ðoàn 5 Dù vào Cổ Thành Ðinh Công Tráng phải tạm ngưng.  Ngày hôm sau, 26-7-1972, có lệnh từ Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cho Sư Ðoàn Dù bàn giao việc tấn công Cổ Thành lại cho Sư Ðoàn TQLC.[15]

Ðợt 1 của cuộc tấn công với Sư Ðoàn TQLC

Trở lại thời gian đầu tháng 5-1972, sau khi cử Trung Tướng Ngô Quang Trưởng thay Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư Lệnh Quân Ðoàn I vào ngày 2-5-1972, thì 2 ngày sau, vào ngày 4-5-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cử Ðại Tá Bùi Thế Lân, lúc đó đang là Tư Lệnh Phó lên thay Trung Tướng Lê Nguyên Khang làm Tư Lệnh Sư Ðoàn TQLC.  Ðến cuối tháng, vào ngày 28-5-1972, Ðại Tá Lân vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức, do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân gắn sao cho ông ngay Bộ Chỉ Huy của Sư Ðoàn TQLC tại Huế.

Ngay từ ngày đầu của Chiến dịch Lam Sơn 72, 28-6-1972, thi hành lệnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, tân Tư Lệnh của Sư Ðoàn TQLC, đã điều động ngay 4 tiểu đoàn tác chiến là các Tiểu Ðoàn 3,5,7 và 8 tiến lên phía Bắc, dọc theo bờ biển, bên phía Ðông của Quốc Lộ 1, song song với Sư Ðoàn Dù.  Các tiểu đoàn TQLC đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của các đơn vị của Sư Ðoàn 304 Bắc Việt đóng chốt trong hàng loạt các công sự bê tông vững chắc (bunkers).

Ngày 29-6-1972, 2 Tiểu Ðoàn 1 và 4, với tổng số 1.450 quân, được trực thăng vận (bằng các trực thăng CH-46 và CH-53 của TQLC Hoa Kỳ) đổ xuống phía Ðông Bắc Thị xã Quảng Trị, dọc theo Hương Lộ 555 tại 2 Bãi Ðổ Quân (LZ = Landing Zone) Flamingo và Hawk.  Nhờ các oanh kích bằng phi pháo, kể cả B-52 trải thảm, các tiểu đoàn TQLC không gặp sự kháng cự mạnh mẻ của địch tại các LZ.  Tuy nhiên, sau đó, địch quân đã nhiều lần sử dụng bộ binh có chiến xa yểm trợ tìm cách bao vây các đơn vị TQLC nhưng đều bị tiêu diệt bằng hải pháo từ các chiến hạm Hoa Kỳ ở ngoải khơi, cách bờ biển khoảng 4 km.  Tổng kết vào cuối tháng 6, riêng các tiểu đoàn TQLC đã gây tổn thất đáng kể cho địch quân như sau: 1.515 chết, 15 bị bắt làm tù binh, và 18 chiến xa bị phá hủy.[16]

Hình bản đố hành quân tái chiếm Quảng Trị – Nguồn: U.S. Marines in Vietnam: the war that would not end, 1971-1973, tr. 109.
Trong hai tuần lể đầu của tháng 7-1972, các tiều đoàn TQLC được lệnh cũng cố các vị trí đã chiếm được của địch.  Tướng Lân thấy cần phải thực hiện thêm một cuộc hành quân nữa, nhằm đưa một tiểu đoàn lên xa hơn phía Bắc để ngăn chận viện quân của địch.  Mục tiêu của cuộc hành quân này là cắt đứt Hương Lộ 560, dài khoảng 17 km, từ căn cứ Cửa Việt (một căn cứ cũ của QLVNCH) cho đến Thị Xã Quảng Trị, con đường huyết mạch tiếp tế cho các lực lượng của địch cố thủ trong Thị Xã Quảng Trị và Cổ Thành Ðinh Công Tráng.  Ngày 11-7, Tướng Lân ra lệnh bắt đầu một cuộc hành quân trực thăng vận mới này, đưa Tiểu Ðoàn 1 (danh hiệu Quái Ðiểu, với Tiểu Ðoàn Trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Ðăng Hòa) đổ xuống Triệu Phong, tại các Bãi Ðổ Quân Blue Jay và Crow.  Ðây cũng là một cuộc đổ quân vô cùng nguy hiểm vì là nhảy thẳng vào lòng địch, và chắc chắn sẽ gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch.  Do đó, đích thân Tướng Trưởng và Tướng Lân đã đến tận nơi xuất phát, bắt tay tiễn đưa trước khi  Thiếu Tá Hòa bước lên trực thăng.  Mặc dù các bãi đáp đã được “dọn cỏ” trước bằng phi pháo và B-52, đoàn trực thăng 32 chiếc (cũng của TQLC Hoa Kỳ, gồm 17 chiếc CH-53, mổi chíếc chở được 60 binh sĩ, và 15 chiếc CH-46, mỗi chiếc chở được 20 binh sĩ) của cuộc hành quân đã được dịch quân dàn chào thật kỷ bằng các dàn phòng không 23 và 37 ly.  Chiếc trực thăng của Thiếu Tá Hòa bị trúng dạn phòng không nhưng may mắn không bị rớt, nhưng khi vừa nhảy ra khỏi trực thăng, Thiếu Tá Hòa đã bị trúng ngay một mãnh đạn pháo 57 ly của địch và bị thương ở đùi phải.  Sau khi được băng bó vết thương, ông vẫn ở lại mặt trận và tiếp tục chỉ huy tiểu đoàn.  Một chiếc trực thăng CH53 bị trúng phòng không và nổ tung trên trời, 60 người trên máy bay chỉ còn 12 người sống sót.  Sau khi cuộc đổ quân hoàn tất, Tiểu Ðoàn 1 có số tổn thất là trên 100 người, vừa chết vừa bị thương.  Sau 3 ngày giao tranh liên tục và ác liệt với các đơn vị địch luôn luôn có chiến xa yểm trợ, Tiểu đoàn 1, đã chận đứng tất cả các cuộc phản công, bắn cháy nhiều chiến xa của địch bằng súng M72, và giữ vững được phòng tuyến, hoàn thành tốt đẹp mục tiêu của cuộc hành quân.  Sau đó, Tiểu Ðoàn 1 được Tiểu Ðoàn 2 (danh hiệu Trâu Ðiên, với Tiểu Ðoàn Trưởng là Thiếu Tá Trần Văn Hợp) tiến lên thay thế, mở rộng phòng tuyến ra đến cầu Ba Bến, giúp cho Công Binh TQLC bắt được cầu phao qua sông Vĩnh Ðịnh để cho các chiến xa M48 đầu tiên của Thiết Ðoàn 20 tiến vào phòng thủ các vùng lãnh thổ mà trước đó Tiểu Ðoàn 1 đã chiếm giữ được.  Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ngày 14-7-1972, Tiểu Ðoàn 1 được lệnh rút về Huế để dưỡng quân và bổ sung quân số.[17]

Ngày 22-7-1972, Tướng Lân lại cho mở một cuộc hành quân mới ở phía Bắc và phía Ðông của Thị Xã Quảng Trị, nhằm cắt đứt toàn bộ các đường tiếp tế và truyền tin của địch.  Ðây là một cuộc hành quân hỗn hợp giữa hai tiểu đoàn của Lữ Ðoàn 147 TQLC với các đơn vị thiết ky và bộ binh.  Các đại đội của Tiểu Ðoàn 5 được trực thăng vận đổ xuống hai Bãi Ðổ Quân Lima và Victor (xem bàn đồ bên dưới), cách thị xã khoảng 3 km về phía Ðông Bắc, chỉ gặp kháng cự tương đối yếu ớt của địch, nhưng, ngược lại, các đơn vị bộ binh và thiết kỵ thì bị địch chống cự mãnh liệt trước khi kết nối được với các đơn vị TQLC.  Ðến giữa trưa thì cả hai tiểu đoàn của Lữ Ðoàn 147 đã kết nối được với nhau và địch quân bị đẩy lùi về phía sông Cửa Việt.  Trong các cuộc giao tranh trong hai ngày kế tiếp, các đơn vị TQLC đã thanh toán xong tất cả các chốt của địch, với 133 địch quân tử trận, 5 chiến xa bị bắn cháy, và một bệnh viện dả chiến với 100 giường của địch đã bị san bằng.[18]   Cuộc hành quân này kết thúc Ðợt 1 của Chiến DỊch Lam Sơn 72 mà Sư Ðoàn TQLC chỉ giữ vai trò phụ.  Theo quyết định của Tướng Trưởng, từ ngày 27-7-1972, Sư Ðoàn Dù bàn giao lại cho Sư Ðoàn TQLC vai trò lực lượng tấn công chính với mục tiêu là, bằng mọi giá, phải chiếm cho bằng được Thị Xã Quảng Trị với biểu tượng là Cổ Thành Ðinh Công Tráng.

Hình bản đố hành quân tái chiếm Quảng Trị – Nguồn: U.S. Marines in Vietnam: the war that would not end, 1971-1973, tr. 120.

Ðợt 2 của cuộc tấn công với Sư Ðoàn TQLC

Ngày 27-7-1972, Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân đưa ra kế hoạch hành quân tấn công tái chiếm Cổ Thành Ðinh Công Tráng như sau:

    Lữ Ðoàn 258, với Lữ Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh, trước sau đã sử dụng tất cả 7 tiểu đoàn tác chiến của TQLC là các Tiểu Ðoàn 1,2,3,5,6,8,9, Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh 105 ly của Sư Ðoàn TQLC, Thiết Ðoàn 17 (thuộc Lữ Ðoàn 1 Kỵ Binh, với các thiết vận xa M-113, Chỉ Huy Trưởng là Trung Tá Nguyễn Viết Thạnh), và 1 Chi đoàn chiến xa M48, chịu trách nhiệm khu vực phía Tây Nam của Cổ Thành, sẽ là lực lượng tấn công chính vào Cổ Thành; ngoài ra, tại Bộ Chỉ Huy của Lữ Ðoàn 258 TQLC lúc nào cũng có sự hiện diện của một toán gồm 10 cố vấn Hoa Kỳ, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Gordon Keiser, TQLC Hoa Kỳ, Cố Vấn Trưởng của Lữ Ðoàn 258, “chuyên đảm nhiệm thiết lập kế hoạch hoả lực yểm trợ cũa Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ từ Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm 77 của Hạm Ðội 7 ngoài Thái Bình Dương và các phi vụ phi cơ chiến lược B52 từ Guam và Thái Lan.”[19]
    Lữ Ðoàn 147, với Lữ Ðoàn Trưởng là Trung Tá Nguyễn Năng Bảo, sử dụng 3 tiểu đoàn tác chiến và Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh của TQLC, phụ trách khu vực phía Ðông Bắc của Cổ Thành, là lực lương tấn công phụ vào Cổ Thanh và ngăn chận viện quân của địch từ phí Bắc kéo xuống.
    Lữ Ðoàn 369, với tân Lữ Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Nguyễn Thế Lương (thay thế Ðại Tá Phạm Văn Chung lên làm Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn TQLC), làm lực lượng trừ bị

Hình Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh (bên trái) và Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân (bên phải)
Về mặt chiến thuật, Tướng Lân quyết định áp dụng xa luân chiến.  “Các Tiểu Ðoàn TQLC từ 1 đến 9 thay phiên nhau trực thuộc Lữ Ðoàn lên tuyến đầu chiến đấu, rồi lui về sau bổ sung nghỉ ngơi. Nhờ vậy các Tiểu Ðoàn TQLC đều được bổ sung đều đặn, khả năng chiến đấu không quá suy giảm vì tổn thất.” [20]

Cuộc hành quân phản công tái chiếm Quảng Trị của Lữ Ðoàn 258 TQLC được chia ra làm 3 giai đoạn:

    Giai đoạn 1: từ ngày 27-7-1972 đến ngày 29-8-1972
    Giai đoạn 2: từ ngày 29-8-1972 đến ngày 9-9-1972
    Giai đoạn 3: từ ngày 9-9-1972 đến ngày 16-9-1972

Giai đoạn 1: từ 27-7 đến 29-8

Trong giai đoạn này, Lữ Ðoàn 258 sử dụng 3 Tiểu Ðoàn 3, 5 và 9.  Ðại Tá Ngô Văn ÐỊnh quyết định dàn quân như sau:

    Tiều Ðoàn 3 của Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh phụ trách phía Ðông Nam Cổ Thành, tại khu vực Nhà thờ Trí Bưu
    Tiểu Ðoàn 9 của Trung Tá Nguyễn Kim Ðể phụ trách phía Nam Thị xã Quảng Trị, tại khu vực Ngả ba Long Hưng
    Tiểu Ðoàn 5 của Thiếu Tá Hồ Quang Lịch làm trừ bị cho Lữ Ðoàn, cũng đóng tại Ngã ba Long Hưng

Sáng ngày 27-7-1972, Tiểu Ðoàn 3 TQLC tiến vào thay thế các đơn vị của Tiểu Ðoàn 5 Dù ở phía Nam Cổ Thành, cách bờ thành vào khoảng 200 m.  Khi các đơn vị của Tiểu Ðoàn 3 TQLC tiến lên thì cũng bị địch chống trả mảnh liệt như đối với Tiểu Ðoàn 5 Dù trước đây.  Sau 2 tuần lễ giao tranh, với tỹ lệ thương vong gần 50% (400/700), Tiểu Ðoàn 3 được lệnh rút về gần Bộ Chỉ Huy của Lữ Ðoàn 258 ở Cù Hoan để dưỡng quân và bổ sung quân số.  Tiểu Ðoàn 8 tiến vào thay thế Tiểu Ðoàn 3.  Sau hơn 2 tuần giao tranh với địch, Tiểu Ðoàn 8 cũng bị tổn thất rất nặng, lại phải rút ra và Tiểu Ðoàn 3, sau khi đã được bổ sung, lại tiến lên thay thế Tiểu Ðoàn 8, cố gắng nhổ các chốt còn lại của địch và mở rộng khu vực kiểm soát của Tiểu Ðoàn 3 tới sát bờ thành.

Trong thời gian của giai đoạn 1 này, các đại đội của Tiểu Ðoàn 9 thay phiên nhau tấn công, nhổ các chốt của địch tại khu vực Ngã ba Long Hưng, khu Bệnh viện, và trường Bồ Ðề, sát bờ sông Thạch Hãn, dọc theo đường Trần Hưng Ðạo dẫn vào Thị xã Quảng Trị.  Tổn thất của Tiểu Ðoàn 9 cũng rất nặng với số thương vong lên đến khoảng 300.  Sau đó, Tiểu Ðoàn 9 rút về khu vực Gia Ðằng để dưỡng quân và bổ sung quân số vũ khí và được Tiểu Ðoàn 1 tiến lên thay thế.

Với các thành quả đạt được bằng xương máu này của Tiểu Ðoàn 3 và Tiểu Ðoàn 9, đường vào Thị xã Quảng Trị và Cổ Thành Ðinh Công Tráng đã được mở toang ra cho các đơn vị của TQLC.  Nhưng trận chiến vẫn chưa chấm dứt và máu của các chiến sĩ TQLC còn phải đổ thêm nhiều nữa.

Giai đoạn 2: từ 29-8 đến 9-9

Trong giai đoạn 2 này, Lữ Ðoàn 258 đã được tăng cường và sử dụng đến 5 tiểu đoàn tác chiến là các Tiểu Ðoàn 1,3,5,6, và 8.

Cuộc chiến đấu đầy cam go với tổn thất không kém trong giai đoạn 1 của các tiểu đoàn TQLC lần này diễn ra ngay bên trong Thị xã Quảng Trị.  Mục tiêu của các tiểu đoàn TQLC là diệt tất cả các chốt của địch, chiếm giữ các cơ sở hành chánh trong Thị Xã, chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng: tấn công và chiếm lại Cổ Thành Ðinh Công Tráng.

Ðại Tá Ðịnh phân công cho các tiểu đoàn như sau:

    Tiều Ðoàn 1, thay thế Tiểu Ðoàn 9, sẽ từ khu Bệnh Viện tấn công lên phía Bắc, chiếm lại Ty Cảnh Sát, nhà máy điện, trường nữ tiểu học, và doanh trại của Cảnh Sát Dã Chiến.
    Tiểu Ðoàn 3, thay thế Tiểu Ðoàn 8, tiếp tục chiếm giữ phía Ðông Nam Cổ Thành
    Tiểu Ðoàn 5 chịu trách nhiệm khu Ðông Nam của Ngã Ba Long Hưng
    Tiểu Ðoàn 6 (với Trung Tá Ðỗ Hữu Tùng là Tiểu Ðoàn Trưởng) chịu trách nhiệm càn quét địch ở phía Bắc Ngã Ba Long Hưng và tiến về phía Tây Nam Cổ Thành
    Tiểu Ðoàn 8 (với Thiếu Tá Nguyễn Văn Phán là Tiểu Ðoàn Trưởng), sau khi bàn giao khu vực cho Tiểu Ðoàn 3, được lệnh rút về phía sau làm trừ bị.

Trong suốt 2 tuần lễ của giai đoạn 2 này, các tiểu đoàn TQLC đã luôn luôn gặp sự kháng cự rất mãnh liệt của địch. Chiến thuật tác chiến trong thành phố (đã từng được các đơn vị TQLC áp dụng nhuần nhuyễn tại Huế và Sài Gòn trong Trận Tết Mậu Thân 1968) đã lại được 4 Tiểu Ðoàn TQLC 1,3,5 và 6 đem ra sử dụng một lần nữa.  Họ đánh cận chiến với địch để giành lại từng khu phố, từng con đường, từng ngôi nhà.  Thêm vào đó, các đơn vị pháo binh của địch đóng bên ngoài thị xã, vẫn tiếp tục pháo vào, gây khó khăn và tổn thất khá năng cho các đơn vị TQLC.  Tuy vậy, sau cùng, các tiểu đoàn TQLC cũng đã hoàn thành nhiệm vụ, tiến sát vào các bờ thành của Cổ Thành Ðinh Công Tráng.

Giai đoạn 3: từ 9-9 đến 16-9

Ðây là giai đoạn cuối cùng của Chiến DỊch Lam Sơn 72, với mục tiêu là tái chiếm Cổ Thành Ðinh Công Tráng.  Tướng Lân quyết định dùng 2 Lữ Ðoàn, 147 ở phía Ðông Bắc (với 2 Tiểu Ðoàn 3 và 7; Lữ Ðoàn Trưởng 147 là Trung Tá Nguyễn Năng Bảo và Lữ Ðoàn Phó là Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc) và 258 ở phía Tây Nam (với 4 Tiểu Ðoàn 1,2,5 và 6), cùng một lúc tấn công vào Cổ Thành.

Mục tiêu chính của Lữ Ðoàn 258, là Dinh Tỉnh Trưởng Quảng Trị (MT 90; MT = Mục Tiêu) và Tòa Hành Chánh Tỉnh Quảng Trị (MT 28), được giao cho Tiểu Ðoàn 2, với Thiếu Tá Trần Văn Hợp là Tiểu Ðoàn Trưởng và Ðại Úy Phạm Văn Tiền là Tiểu Ðoàn Phó, có Bộ Chỉ Huy đóng ở Ngã Ba Long Hưng, tại góc đường Lê Huấn và Quốc Lộ 1.

Việc tấn công và chiếm giữ hai Mục Tiêu 28 và 90 này được Thiếu Tá Hợp giao cho Ðại Ðội Ðại Ðội 4 với Đại Úy Lê Quang Liễn là Đại Đội Trưởng, và Ðại Ðội 5 với Trung Úy Huỳnh Văn Trọn là Ðại Ðội Trưởng.  Chắc chắn cũng đã biết được ý đồ của các đơn vị TQLC đã có mặt trong Thị Xã nên từ sáng sớm ngày 14-9-1972, địch đã “dàn chào” 2 Ðại Ðội 4 và 5 của Tiểu Ðoàn 2 bằng một trận pháo 130 ly rất dữ dội nhưng không gây được tổn thất gì nghiêm trọng.  Sau khi trận pháo chấm dứt, Ðại Ðội 4 tiến chiếm mục tiêu đầu tiên là Trường Phước Môn, và sau đó là Trường Trung học Teresa, và bắt được một số tù binh.  Khai thác các tù binh, Ðại Úy Liễn biết được họ thuộc một một đơn vị của Sư Ðoàn 320 B vừa vượt sông Thạch Hãn tối hôm trước để tăng viện cho các đơn vị của địch còn đang cố thủ trong Thị Xã.  Ðêm hôm đó, cùng với Ðại Ðội Phó là Trung Úy Nguyễn Hữu Hào và Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 5 là Trung Úy Trọn, Ðại Úy Liễn thảo luận và lên kế hoạch thật tỉ mỉ cho cuộc tấn công vào MT 28 vào sáng hôm sau, 15-9-1972.  Với sự yểm trợ của 2 chiến xa M48 và 2 thiết vận xa M113, hai Ðại Ðội 4 và 5 của Tiểu Ðoàn 2 TQLC, tuy gặp sự chống trả mãnh liệt của các chốt địch, đã hoàn thành nhiệm vụ, chiếm lại được Tòa Hành Chánh Tỉnh Quảng Trị (tức MT 28) vào lúc 8 giờ 30 sáng ngày 15-9-1972, với kết quả vô cùng rực rỡ như sau:

“Riêng Ðại Ðội 4 đã tịch thu được một số lớn chiến lợi phẩm và một kho tiếp liệu gồm:

    412 súng cá nhân
    102 súng cộng đồng
    40 thùng lương khô do Trung Cộng sản xuất
    23 máy truyền tin của Trung Cộng
    18 tù binh
    Nhiều hố chôn tập thể và xác quanh khu vực Tòa Hành Chánh và khu hầm ngầm bên trái Tòa Hành Chánh, khoảng 30 xác.

Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến phải dùng 6 đợt thiết vận xa M113 để chuyển tù binh và chiến lợi phẩm về Bộ Chỉ Huy.” [21]

Về phần Lữ Ðoàn 147, phụ trách tấn công từ hướng Ðông Bắc, mục tiêu chính là thanh toán nốt các chốt của địch còn cố tử thủ trong tòa Cổ Thành Ðinh Công Tráng đã đổ nát vì bom đạn trong hơn hai tháng đã qua.  Nhiệm vụ chính này được Lữ Ðoàn 147 giao cho Tiểu Ðoàn 3, với Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh làm Tiểu Ðoàn Trưởng và Thiếu Tá Trần Kim Ðệ là Tiểu Ðoàn Phó.

Thiếu Tá Cảnh phân công cho 2 đại đội của Tiểu Ðoàn 3 là Ðại Ðội 2 của Ðại Úy Giang Văn Nhân và Ðại Ðội 3 của Ðại Úy Nguyễn Văn Thạch nhiệm vụ nhổ chốt này.  Sáng sớm ngày 15-9-1972, Ðại Ðội 3 tiến lên trước, phá vở được phòng tuyến của địch nơi cửa Hữu của Cổ Thành, các Trung Ðội của Ðại Ðội 2 lập tức tràn lên bờ thành, tỏa ra tấn công vào tất cả các cửa thành.  Trung Ðội 22 chiếm cổng chính cửa Tiền đường Lê Văn Duyệt.  Các chốt của địch quân kháng cự yếu ớt, rút về cố thủ ở cửa Tả đường Phan ÐÌnh Phùng, nhưng đã quá trể.  Tất cả các cánh quân của cả hai Ðại Ðội 2 và 3 của Tiểu Ðoàn 3 đồng loạt xung phong, tràn vào tất cả các ngỏ ngách của khu vực này của Cổ Thành.  Tiếng súng kháng cự của địch thưa dần và sau cùng tắt hẳn.  Tiểu Ðoàn 3 TQLC đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.  Cổ Thành Ðinh Công Tráng trong phạm vi của Thị Xã Quảng Trị đã hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của các đơn vị TQLC của QLVNCH.  Cổ Thành với tường thành cao 9,4 m, dưới chân dày đến 12 m, đã bị các trận phi pháo kinh khủng của QLVNCH và Hoa Kỳ phá tan nát, chỉ còn là đống gạch vụn, giống như một phế tích, như trong hình bên dưới đây:


Hình trích từ sách U.S. Marines in Vietnam (Ghi chú số 16, tr. 119)

 “Sau gần 24 giờ chiến đấu không nghỉ, những người lính của Ðại Ðội 2 Tiểu Ðoàn 3 TQLC đã dựng ngọn cờ trên cổng thành cửa Tả vào mờ sáng ngày 15 tháng 9 năm 1972.” [22]

Hình trích từ bài viết của Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh (Ghi chú số 18)

Lễ thượng cờ VNCH được cử hành chính thức ngày hôm sau, lúc 12 giờ 45 trưa ngày 16-9-1972.  Chiến Dịch Lam Sơn 72, khởi sự ngày 28-6-1972, đã chấm dứt với chiến công rực rỡ của Sư Ðoàn TQLC, QLVNCH, chiếm lại được tỉnh Quảng Trị đã lọt vào tay quân địch từ ngày 1-5-1972.
Thay Lời Kết

Trong trận đánh quyết liệt và đẫm máu này, “bên thắng cuộc,” tức Miền Bắc Cộng sản (theo cách gọi của nhà văn Huy Ðức của Miền Bắc trong tác phầm có cùng tên), đã thua đậm, và “bên thua cuộc,” tức Miền Nam Tự do, lại thắng lớn, nhưng cả 2 bên đều phải chịu những tổn thất rất lớn.  Thống kê chính thức về tổng số thương vong của cả hai phe trong trận đánh tái chiếm Quảng Trị, từ ngày 28-6-1972 cho đến ngày 16-9-1972, rất khó có thể biết một cách thật chính xác, nhứt là đối với quân Bắc Việt đã tử thủ và bị chôn vùi trong những đổ nát của Thị Xả Quảng Trị và Cổ Thành Ðinh Công Tráng do các trận oanh kích của phi cơ và hải pháo từ Hạm Ðội 7, của Không Lực VNCH cũng như các phi vụ trải thảm của B-52.

Về phía QLVNCH, chỉ riêng đối với Lữ Ðoàn 258 TQLC, từ ngày 29-3 đến ngày 16-9-1972, tổng số thương vong chính thức là 3.911 gồm 637 tử thương và 3.274 bị thương:

Báo cáo trích từ bài viết của Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh (Ghi chú số 18)

Dĩ nhiên, các con số này không bao gồm thương vong của 2 Lữ Ðoàn 147 và 369 của Sư Ðoàn TQLC, cũng như của các đơn vị của Sư Ðoàn Dù, và các binh chủng khác của QLVNCH đã có tham gia trận đánh (Biệt Ðộng Quân, Biệt Cách Dù, Thiết Giáp, vv).  Trong tác phẩm của mình, tác giả Dale Andradé (Ghi chú số 17; tr. 196), đã viết như sau: “… the South Vietnamese marines suffered more than 5,000 casualties since June, 3,658 of them during the seven-week battle to recapture the citadel.  Almost one out of every four marines in the entire division was wounded or killed.” (tr. 196; xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “… Thủy Quân Lục Chiến của Nam Việt Nam đã có tổng số thương vong hơn 5.000 từ tháng 6, trong đó có 3.658 là trong thời gian trận đánh 7 tuần lễ tái chiếm cổ thành.  Gần như là một phần tư binh sĩ của sư đoàn đã bị thương hoặc tử trận”).

Về phía quân Bắc Việt, tổng số thương vong chính thức cũng khó có thể biết chính xác được.  Một điều gần như chắc chắn là 2 Trung Ðoàn 48 và Triệu Hải của Sư Ðoàn 320 B, đã tử thủ trong Thị Xã và Cổ Thành, đã bị tổn thất rất nặng, gần như đã bị xóa sổ.  Trong tài liệu chính thức của Việt Nam cộng sản gần đây, “công bố tại mít tinh kỷ niệm 40 năm” của trận đánh, Miền Bắc công nhận họ đã tổn thất 36.000 quân, và quả thật, 2 Trung Ðoàn 48 và Triệu Hải đã bị xóa sổ. Trung Ðoàn Triệu Hải từ 1.500 quân chỉ còn lại không tới 1 tiểu đội (khoảng 12 người), và Trung Ðoàn 48 đã bị tổn thất hơn 80% quân số.[23]  Về hồi ức cá nhân, Ðại Tá Vũ Trung Thướng, trong trận Quảng Trị năm 1972 là Chính Trị Viên của Ðại Ðội 5, Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 48, Sư Ðoàn 320 quân Bắc Việt, đã kể lại như sau: “…từ ngày 28/6 đến ngày 16/9/1972, Đại đội 5 của tôi từ 120 quân, nhưng sau đó chỉ còn 17 người sống sót.” [24]  Mới đây nhứt, ngày 16-1-2018, Đội Quy Tập Hài Cốt Liệt Sĩ 584 của Bộ Chỉ Huy Quân Sự tỉnh Quảng Trị đã cho biết vừa tìm thấy thêm 12 hài cốt tại thôn Tân Mỹ, xã Hải Lệ, Thị xã Quảng Trị.[25]  Chắc chắn, trong tương lai, sẽ còn có thêm nhiều, rất nhiều, những vụ tìm thấy và khai quật được hài cốt của các binh sĩ Bắc Việt đã bị chôn vùi tại khu vực Thị Xã Quảng Trị và Cổ Thành Ðinh Công Tráng trong trận đánh đẫm máu nhứt trong Chiến Tranh Việt Nam này.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Hội Ái hữu Petrus Trương Vĩnh Ký


Ghi Chú:

    Trung Tướng Ngô Quang Trưởng là vị tướng lỗi lạc nhứt của QLVNCH.  Ông sinh ngày 13-12-1929 tại tỉnh Bến Tre (sau đổi tên là Kiến Hòa), theo học Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, mãn khóa ngày 1-6-1954 với cấp bậc Thiếu Úy, tình nguyện vào Binh chủng Nhảy Dù, và là một Trung Ðội Trưởng của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù.  Ông đã lần lượt thăng cấp như sau: thăng cấp Trung Úy ngày 1-12-1955, Ðại Úy năm 1961,Thiếu Tá năm 1964, Trung Tá tháng 4-1965, Ðại Tá nhiệm chức ngày 19-6-1966, Chuẩn Tướng nhiệm chức ngày 4-2-1967, Thiếu Tướng nhiệm chức ngày 3-6-1968, Trung Tướng nhiệm chức ngày 1-11-1971.  Ông nổi tiếng là một tướng lãnh rất gương mẫu về quân phong, quân kỷ, rất tận tụy với trách nhiệm, và luôn luôn có mặt tại những điểm nóng trong khu vực thuộc trách nhiệm của mình.  Ông cũng nổi tiếng là một tướng lãnh trong sạch, thanh liêm, và không dung túng cho cấp dưới làm bậy, xâm phạm tài sản của dân chúng.  Ông cũng là một trong số rất ít các tướng lãnh hoàn toàn không có tham vọng chính trị và không bao giờ dính líu vào các âm mưu, biến cố chính trị.  Ông dành toàn thời gian cho quân vụ.  Tướng Trưởng là một trong số ít các vị tướng lãnh của QLVNCH đã chỉ huy các đơn vị tác chiến từ cấp thấp nhứt đến cấp cao nhứt: Trung đội trưởng: tháng 7-1954 (một trung đội của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù); Ðại đội trưởng: đầu năm 1955 (Ðại Ðội 1, Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù); Tiểu đoàn trưởng: năm 1961 (Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù); Tư lệnh sư đoàn: năm 1966 (Sư Ðoàn 1 Bộ Binh); Tư lệnh quân đoàn: Quân Ðoàn IV (1970-1972) và Quân Ðoàn I (1972-1975).  Sau ngày 30-4-1975, ông định cư tại thành phố Springfield, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.  Ông mất tại đây vào ngày 22-1-2007, thọ 78 tuổi.  Theo lời dặn dò của ông, tro hài cốt của ông đã được gia đình ông mang về Việt Nam và rải trên đèo Hải Vân.
    Lavalle, A.J.C., editor. Airpower and the 1972 spring invasion.  Washington, D.C.: United States Air Force, Office of Air Force History, 1985.  (U.S.A.F. Southeast Asia monograph series; v. 2, monograph 3).  58.
    Brand, Matthew C. Airpower and the 1972 Easter Offensive.  Fort Leavenworth, Kansas: U.S. Army Command and General Staff College, 2007.  (Luận văn Master of Military Art and Science của Trung Tá Không Quân Hoa Kỳ Matthew C. Brand).  83.
    Thiếu Tướng Bùi Thế Lân là 1 trong những sĩ quan TQLC kỳ cựu nhứt của QLVNCH. Ông sinh tháng 11-1932 tại Hà Nội, tốt nghiệp Thiếu Úy Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức ngày 1-6-1954, và gia nhập ngay binh chủng TQLC, giữ chức vụ Ðại Ðội Trường, Tiểu Ðoàn 1 TQLC.  Năm 1960, ông thăng cấp Trung Úy và làm Tham Mưu Trưởng của Liên Ðoàn TQLC.  Ngày 1-6-1961, ông thăng cấp Ðại Úy và làm Tiểu Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn 4 TQLC.  Năm 1963, ông được gởi đi du học Khóa Chỉ Huy và Tham Mưu TQLC tại Quantico, Virginia, Hoa Kỳ.  Sau khi tồt nghiệp, trở về nước, ông thăng Thiếu Tá và được bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Lữ Ðòan TQLC.  Sau đó ông lần lượt thăng cấp lên Trung Tá (1963) và Ðại Tá (1964), và năm 1971, ông kiêm nhiệm luôn chức vụ Tư Lệnh Phó TQLC.  Ngày 4-5-1972, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh TQLC, và ngày 24-5-1972 ông vinh thăng Chuẩn Tướng.  Ðầu tháng 4-1975, ông thăng Thiếu tướng.  Sau năm 1975, ông sống tại Hoa Kỳ và mất ngày 14-1-2014 tại San Jose, tiểu bang California, hưởng thọ 82 tuổi.