"I am not Hero." – Paul LongMy Choate.

Đại Tá Hải Quân Paul LongMy Choate trên hình bìa của báo Almanac trong dịp nhận huy chương cao quý Bronze Star Medal (ngôi sao đồng) về chiến công đặc biệt tại mặt trận I-Raq.

Bài đọc suy gẫm:  Blog 16 xin hân hạnh trích đăng hồi ký “I’m not Hero” hay  “Hồi Ức Tháng Tư” của tác giả Long Mỹ. Người dịch: Trương Kim Hoàng Thư. Bài viết về giai đoạn phục vụ tại I-Raq của vị Đại Tá mang hai giòng máu Mỹ Việt hiện đang phục vụ trong binh chủng Hải Quân Hoa Kỳ. 16 ghi nhận thế hệ thứ hai của người Việt Nam tị nạn đang có những đóng góp rất tích cực nơi quê hương mới.  Hình ảnh chỉ có tính cách minh họa.

Hồi Ức Tháng Tư Của Long Mỹ
 
“Hồi Ức Tháng Tư của Long Mỹ” là bài viết của Paul LongMy Choate, Đại Tá Hải Quân,  một cấp chỉ huy trên Hàng Không Mẫu Hạm nguyên tử lớn nhất của Hoa Kỳ USS CARL VINSON (CVN-70). Đây là con tầu đã tung ra các đợt tấn công đầu tiên trên không ở Afghanistan sau biến cố 9/11 và cũng chính nó đem thi hài Osama Bin Laden thủy táng trên biển. Tháng Tư 2012, cũng con tầu này đã tiến vào Thái Bình Dương, thăm Úc, đánh dấu việc Hoa Kỳ chuyển trọng tâm chiến lược sang Á Châu.

Paul Long Mỹ Choate sinh tại Sàigòn năm 1967, bố Mỹ – mẹ Việt, là cháu ngoại của gia đình họ Trương, có các bà dì ruột là những tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ  những năm đầu tiên và tác giả Trương Ngọc Bảo Xuân từ 2005 đã là thành viên ban tuyển chọn chung kết.

Rời Việt Nam khi mới 3 tuổi rưỡi,  Hồi ức của Long Mỹ được viết bằng Anh ngữ,  Trương Kim Hoàng Thư giúp dịch sang Việt ngữ và viết thêm phần hồi ức “hậu phương.” Phần hai. Tiếp theo và hết.

* * *

*Tiền Tuyến.

9/11/2001, ngày kinh hoàng lịch sử ấy, chúng tôi đang trên hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis để huấn luyện thực tập sinh viên phi công Hải Quân (HQ).
Thông báo của Captain Gallagher đánh thức chúng tôi bằng máy phóng thanh IMC intercomp rằng những kẻ khủng bố đã tấn công nước Mỹ.
Ông nói rằng tất cả nhiệm vụ của chúng tôi lúc đó, phải chuyển qua công tác khác. Chúng tôi lập tức được bố trí sang Trung Đông để tham gia cuộc chiến. Ngay buổi chiều hôm đó, HQ đã cho 45 chiến đấu cơ hạ cánh trên chiến hạm. Từ đấy, Ông Admiral và Captain cùng bay các phi vụ tuần tra trên bầu trời của Los Angeles. Chúng tôi ở ngoài khơi liên tiếp 3 tuần, sau đó được lệnh về nhà trong thời gian rất ngắn để lấy thêm vật dụng, nói lời tạm biệt với gia đình rồi chuyển tiếp đến North Arabian Sea.

  USS John C. Stennis [CVN 74] Hàng Không Mẫu Hạm
Chiếc USS John C. Stennis CVN-74 là một chiến hạm nguyên tử hạt nhân (Nuclear Aircraft Carrier) và được coi là chiến hạm mạnh nhất từng được chế tạo. Nó dài tới 1,074 feet (327.355m), có thể di chuyển với tốc độ 35 kts (1 knot = 1.151 mph = 1.852 kph), sức chứa hơn 70 phi cơ, và gần 5,500 sĩ quan cùng thủy thủ.
Đây là tàu chiến đầu tiên của tôi. Chúng tôi lênh đênh trên biển cả 110 ngày dài.
Cuộc sống trong HQ không phải là một cuộc sống dễ dàng. Trên tàu chiến HQ thì không có gì là riêng của mình. Một người phải rất quyết tâm để có thể chấp nhận lối sống xa nhà nhiều ngày tháng liên tục trên tàu, dù có chật hẹp, gò bó, thiếu thốn, thức ăn hầu hết là đồ hộp, đông lạnh vv…vv…, vẫn giữ vững sức mạnh từ tinh thần đến thể xác để thi hành nhiệm vụ một cách hoàn hảo. Tuy nhiên, nhiều thủy thủ vẫn cần sự giúp đỡ, nhất là về phương diện tinh thần.
Là một sĩ quan, công việc của tôi là đặt thủy thủ vô một vị trí để họ thành công, để loại bỏ tất cả các rào cản, để đảm bảo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người. Có tới 90% thủy thủ trên tàu chiến HQ được bố trí đến North Arabian Sea, tung ra các phi vụ ném bom tại Afghanistan và hầu hết số nầy dưới 21 tuổi và lần đầu tiên xa nhà. Chúng tôi huấn luyện những người trẻ mới trưởng thành và biến họ thành những thanh niên nam nữ dũng cảm.

*Năm 2006, tháng 11, Iraq.

Đang là chủ sự của Trung Tâm Fleet Readiness Center Southwest (FRCSW) chuyên việc thử chất nổ, tôi được gởi tới Iraq để giúp binh chủng bộ binh. Đặc trách tới Division Special Troops Battalion, 1st Calvary Division, U.S. Army, tôi chịu trách nhiệm bao gồm Căn Cứ 12 Forward Operating Bases (FOB).

Một kế hoạch chiến tranh mới có tên là “surge” cho phép các chiến sĩ rời khỏi căn cứ và sống hòa lẫn với người dân Iraq, nhưng kế hoạch này cực kỳ nguy hiểm bởi vì rất khó để có thể biết ai là kẻ địch. Hơn nữa, kế hoạch surge bị khựng lại vì những quả bom cài đặt bên đường, gọi là “improvised explosive device” (IED) được bọn khủng bố điều khiển bằng cell phone, làn sóng radio và remote control.

Bom mìn tự chế được kích hoạt từ xa gây nhiều thiệt hại đáng kể. Hình dưới: Chiếc quân xa bị trúng mìn tại Bangdad.

Trong vòng ba năm qua đã có hơn 100,000 vụ tấn công bằng IED và đó là lý do tại sao họ  đội Hải quân  được lệnh qua tiếp sức.

Nhiệm vụ của tôi là cài đặt một hệ thống chống lại những quả bom vệ đường ấy, gọi là “special jamming electronics systems” trong xe. Hệ thống này có khả năng làm ngẹt đường dây điện thoại di động, phá hủy, vô hiệu hóa băng tần thu của máy bấm điều khiển, ngăn chặn trước khi bom bùng nổ. Chúng tôi cũng  huấn luyện các chiến sĩ cách sử dụng, sửa chữa và phá vở hệ thống IED.

Có rất nhiều trở ngại và những thiếu thốn phải đối phó trong thời gian gây dựng nguyên một trung tâm làm việc. Chúng tôi phải xây một cơ sở, đào đường hầm dài hai miles để chạy đường dây Internet, điện lực, điện thoại, phải cho công tra cung cấp nước uống và nhà vệ sinh di động.

Tại Iraq, mỗi ngày có rất nhiều đoàn xe quân đội khác nhau (HMVV, Strikers, Bradleys, PLS, và những loại xe chuyên chở hạng nặng) vào khu của tôi để được giúp đỡ hay điều chỉnh sửa chữa. Tại căn cứ, dưới quyền tôi có một cấp trưởng và hơn 200 nhà thầu dân sự Hoa Kỳ tại khu này và nhiều nơi khác trong cả nước.

Căn cứ của tôi cài đặt hơn 12,000 hệ thống. Điều này cho phép nhiều chiến sĩ rời khỏi căn cứ an toàn để thực hiện nhiệm vụ của họ và điều quan trọng nhất là sự thành công của kế hoạch “surge”. Điều đáng mừng, những vụ  chiến xa quân dân sự bị nổ dọc đường đã giảm xuống rất nhiều, kể như, có rất nhiều mạng sống đã được cứu trong thời gian nhóm chúng tôi thực hiện công tác ấy.

Sự cần thiết và mục đích chính của chúng tôi là giúp đỡ chiến sĩ để thành công trong cuộc chiến này, đem về quê hương càng nhiều càng tốt, những quân nhân và dân sự.

Để việc làm được suông sẻ và không phí thì giờ vì mỗi chiếc xe lăn bánh trên đường, mỗi giây phút trôi qua là mạng sống của binh sĩ và dân sự bị đe dọa, tôi áp dụng phương pháp cải tiến, làm việc theo dây chuyền sản xuất cho nhanh. Tất cả các dụng cụ, máy móc, mọi thứ cần thiết trong mỗi nhiệm vụ, những gì không quan trọng trong công việc đã được cắt giảm tới mức tối đa. Lúc đó chúng tôi có một đội ngũ bảo trì và một đội ngũ cài đặt, tôi phối hợp cả hai thành một đội và huấn luyện tất cả binh sĩ hai đội thông thạo cả hai việc bảo trì và cài đặt.

Khi mới thành lập căn cứ, việc làm này tốn khoảng 2 tiếng 30 phút để cài đặt một hệ thống, khi thay đổi cách làm, chúng tôi đã giảm xuống chỉ cần 30 phút là xong.

Tôi không thích bay trên không phận Iraq! Chiếc trực thăng Blackhawk phải bay rất  thấp, tầm cao khoảng 200 feet (cở 61m) ngang đỉnh cây, tôi nhìn xuống quan sát. Thành phố Baghdad lúc đó rất hoang tàn đổ nát, rác rưởi phủ đầy  đường, rác bao trùm các tòa nhà đã bị phá hủy bởi chiến tranh. Người nghèo ở khắp mọi nơi, những ngôi nhà cũ mục, xây bằng đá và bùn với tuổi thọ chắc đã hơn ngàn năm. Trong thành phố, tôi thấy còn rất nhiều xe di chuyển trên đường, một đứa bé đang chơi trước sân trường, nhưng ở nơi khác, cả làng đang bốc cháy. Vào ban đêm nhiều nhà chỉ có ánh sáng lóe ra từ một ngọn lửa đốt ngoài sân vì cả thành phố không có điện. Các vùng nông thôn là những bãi đất hoang loang lổ đầy hố. Tuần trước đó, tôi đã bay đến nhiều khu chuyển tiếp điều hành cơ sở Forward Operating Bases (FOB) để quan sát sinh hoạt của những trại quân khu. Tôi đã bay đến Rustamayah, Kalsu, Baghdad Green Zone, Falcon, Loyalty và Taji.

Những điều chúng tôi đã học được là kẻ thù khủng bố này rất nguy hiểm và thông minh. Đám khủng bố bị chúng tôi tiêu diệt chỉ là những đám lẻ tẻ ngu xuẩn, nhưng đám khủng bố thật sự thì liên tục thay đổi cách tiếp cận để tấn công chúng tôi. Khi bay qua trại Stryker gần sân bay Baghdad, vài lần chúng tôi bị tấn công bằng mortar và súng nhỏ (small arms fire), nhưng tôi tương đối an toàn. Một số căn cứ khác bị tấn công hàng ngày. Tại căn cứ Loyalty thành phố Sadr, đã có một vụ nổ bom xe phía bên kia bức tường cách tôi chừng khoảng 60m và có rất nhiều chiến sĩ chạy sang ẩn núp bên trong tòa nhà của chúng tôi.

Sự căng thẳng của chiến trường đã đến mức không thể chịu đựng nổi. Mỗi đêm bị tấn công bằng mortar. Mỗi ngày mỗi thêm người chết. Tại Baghdad tôi đã không thể gọi là “ngủ” trong 3 tháng. Lý do giúp tôi giữ vững vị trí chỉ huy của mình là, khi biết rằng càng nhiều bộ phận IED chúng tôi cài đặt, càng có nhiều chiến sĩ có thể được cứu, và càng nhiều kẻ khủng bố bị tiêu diệt.

Một lần địch tấn công, mặc dù đã hết sức cẩn thận tôi cũng đã ngã nhào và bị chấn thương trên đầu.

Vào mùa hè, có thế nói Iraq là một nơi nóng nhất trên thế giới, nhiệt kế có thể tăng hơn 120 độ, cộng thêm 40 pounds của bộ quân phục áo giáp. Bất cứ lúc nào đi ra ngoài, sức nóng có thể làm mình ngộp thở. Nhiều binh lính tự dưng ngã ra chết mà không hiểu nguyên do.

Điều mà chúng tôi cảm tạ là bộ đồ trận ACU, thoải mái nhất từ trước đến giờ so với những bộ khác, thậm chí tốt hơn cả quân phục HQ thời tôi còn mặc quần “bell bottom dungarees”.

Thế rồi thời tiết thay đổi.

Trời lạnh và mưa thường xuyên, biến tất cả mọi thứ thành bùn – làm tôi nhớ tới những phim đen trắng về chiến tranh lạnh (cold wars). Bùn và Mưa!

Một ngày nọ, con đường trong phố bị cấm lưu thông và lúc đó có một đoàn ba xe buýt màu đen chạy ngang. Tôi nhìn mà không biết có Saddam Hussein trong đoàn xe buýt ấy cho đến khi tôi nghe tin tức đêm đó.

* 2007 Giáng Sinh, Iraq.

Giáng sinh bên Iraq cũng không đến nỗi quá tệ. Chúng tôi đã có một bữa ăn tuyệt ngon tại hội trường, vì đó là món tôi rất thích, prime rib. Lúc ở trại FRC Baghdad, ngoài việc bảo trì chúng tôi lãnh luôn phận sự phân phát những gói quà từ các tình nguyện viên khắp nơi trên Hoa Kỳ gửi sang chiến sĩ khoảng một tuần trước lễ Giáng sinh. Đây là những gói quà gọi là “care packages”. Dạo đó chúng tôi nhận được 20 thùng cạc-tông, kích thước mổi thùng là 4 feet X 4 feet, chứa hàng trăm gói quà nhỏ, trong đó gồm có bánh ngọt của nhóm hướng đạo, xà-bông gội đầu, dao cạo râu, kem đánh răng, dvd, v v…..

Nhìn nét rạng rỡ trên khuôn mặt của những binh sĩ trẻ, thủy thủ, thủy quân lục chiến lúc họ nhận được gói quà này, tôi nghĩ rằng đó là sự khuyến khích rất hiệu quả cho họ khi hậu phương nghĩ tới tiền tuyến.

Sau khi hoàn thành công tác tại Irag, tôi được hồi hương. Một số binh sĩ đã không may mắn như vậy. Nhiều người đã thành tử sĩ như đã xảy ra trong mọi cuộc chiến.

Tôi nhớ hoài một  nữ quân nhân canh gác cho khu ăn. Bị tấn công bằng mortar, mặc dầu cô mặc áo giáp toàn thân đầy đủ nhưng một mảnh nhỏ của viên đạn trái phá (shrapnel) đã xuyên qua và đâm thẳng vào trái tim. Cô ngã xuống, hai tay vẫn ôm chặt khẩu súng, đôi mắt xanh trong vẫn mở trừng trừng. Lúc đó cô đang nghĩ gì? Có lẽ cô không biết mình đã chết. Gia đình cô hẳn đang trông đợi cô trở về! Và khi về nhà, cô nằm trong chiếc quan tài phủ màu cờ.

Cô mới 19 tuổi, bằng tuổi con tôi. Cô nằm xuống khi cả cuộc đời còn trước mặt.

Hai binh sĩ khác đã mất mạng trong một đoàn hộ tống. Một người sửa soạn rời khỏi căn cứ và người kia được phái tới để thay thế anh. Người lính cũ đang chỉ người lính mới nơi nào là lĩnh vực nguy hiểm, nơi nào cần tránh, đùng một cái, quả bom cài bên lề đường nổ tung, banh xác cả hai.

Chuyện khác, căn cứ Victory tại Baghdad, có những con kinh đào rất sâu, vào ban đêm một số đường không đèn và rất tối, có hai binh sĩ mới phái đến, không quen thuộc với căn cứ, lái chiếc Humvee, họ bị thất lạc trong đêm tối và khi quành đầu chiếc Humvee lại, nó bị lọt xuống con kinh, lật úp xuống nước, kẹt trong xe, cả hai đều chết đuối.

Tôi đề cập đến những người này vì chính họ và hàng ngàn người khác thực sự hy sinh mạng sống của mình để phục vụ cho đất nước của chúng ta. Những chiến sĩ ấy, với tôi, đó mới là những anh hùng thật sự!

Tại Iraq, khác biệt giữa sự sống và cái chết đôi khi chỉ là may mắn. Có hai nhà thầu làm việc cho tôi và tôi gửi họ sang Balad Iraq để thi hành một nhiệm vụ. Tôi đưa họ đến sân bay trực thăng nhỏ, gọi là sân bay cho oai nhưng đó chỉ là một cái lều thôi, để thả họ ở đó mà đón chuyến bay khác, nhưng không hiểu vì sao cuối cùng tôi quyết định ở lại chờ cho đến khi máy bay trực thăng đến. Chuyến bay tới trễ và anh linh gác bảo chúng tôi đi ăn trước. Khi chúng tôi trở lại, anh lính báo cho biết chúng tôi lỡ chuyến bay, và rồi tin tức cho hay chuyến bay lỡ ấy bị bắn rơi và thiệt mạng sáu người lính.

Hai anh nhà thầu sợ xanh mặt, cả hai vừa thoát chết.

Lần trở về từ Iraq, tôi cảm nhận thêm nhiều khó khăn hơn so với những cú sốc mà tôi trải qua lúc được gởi ra chiến trận. Một ngày tôi lo tránh bị đạn bắn hoặc bị bom nổ tung lên, qua ngày hôm sau, tôi trở lại California an bình. Dường như có rất nhiều người không hiểu rằng chúng tôi đang đương đầu với một cuộc chiến tranh tàn khốc thực sự tại Iraq và Afghanistan.

Có những lúc tôi là sĩ quan duy nhất từ đơn vị của mình phái qua Iraq, vì HQ chỉ gởi từng người sang Iraq và Afghanistan với một nhiệm vụ đặc biệt là để hỗ trợ nỗ lực tham chiến. Những kinh nghiệm gian khổ không được chia sẻ với các bạn đồng đội hoặc những thủy thủ từ đơn vị của riêng mình, thành ra tôi cảm thấy thật khó khăn và lạ lẫm để cố gắng giải thích về một cuộc chiến gian nan và tình hình khủng khiếp như thế nào.

Ai cũng nói rằng việc khó khăn nhất trong HQ chính là làm vợ của lính HQ và tôi rất đồng ý. Vợ tôi, Tracy, là một người đàn bà tốt nhất. Cô đã phải chịu đựng cô đơn nhiều năm những lúc tôi ra chiến trường, tự mình chăm sóc ba đứa con nhỏ, không biết nếu tôi có được an toàn, hoặc thậm chí tôi có trở về hay không. Các con đã lớn và trưởng thành trong suốt thời gian dài với một người cha bán thời gian. Con trai trưởng của tôi bây giờ 21 tuổi, con gái đã 19, và con trai út 17 tuổi.

Trong mười năm kể từ biến cố 9/11, tôi vắng mặt tổng cộng là 5 năm. Khi quay trở về nhà từ Iraq tôi lâm bệnh trầm cảm và mất ngủ. Đó là thời gian thật khổ não cho Tracy và con, nhưng cả gia đình đã sát cánh và giúp tôi phục hồi. Tôi hiểu mình may mắn vì có nhiều loại vết thương từ cuộc chiến không thể chữa lành. Trong số binh sĩ trở về từ chiến trường, có ngưòi đã phải tự kết liểu đời mình!

Nhưng, dù có tàn khốc đến thế nào đi nữa, chiến tranh đôi khi vẫn cần phải xảy ra; vũ khí có tầm hoạt động sát nhân mãnh liệt tới cỡ nào đi nữa, đôi khi cũng phải sử dụng, để bảo vệ đất nước,  yểm trợ đồng minh và giúp đỡ  những quốc gia yếu thế, chống lại những cường quốc có ý đồ gây hấn, xâm lăng.

Năm 2012, Paul ngày vinh thăng Đại Tá Hải Quân và mẹ, Bà Trương Thị Lài, trước mẫn hạm CVN-70. Hình dưới:  Paul cùng Tracy ,các con.
Paul cùng dì Trương Kim Hoàng Thư (dịch giả, kiêm tác giả)


* Ngôi Sao Đồng

Ngày 6 tháng 12 năm 2007.

Tại quân khu HQ, ông Captain của tôi nói hãy mang gia đình vào trại ngày thứ sáu. Họ làm lễ, Ông Admiral gắn lên quân phục tôi huy chương Ngôi Sao Đồng (Bronze Star Medal).

Hình ảnh và phóng sự về buổi lễ này được in trong tạp chí Almanac FRCSW tháng Jan 2008, có trích đoạn như sau:

“Trung tá Paul LongMy Choate đã trầm trầm lên tiếng trong buổi lễ tuyên dương công trạng và gắn huy chương Bronze Star Medal tại Trung Tâm Fleet Readiness Center Southwest (FRCSW) vào ngày 06 tháng 12 năm 2007, từ tay của Vice Admiral Thomas J. Kilcline Jr., Commander Naval Air Force, cho một kỳ công mà ông đã hoàn tất mỹ mãn trong cuộc chiến đem lại nền dân chủ cho quốc gia Iraq.

“I’m not hero.”

Dù ông đã khiêm nhượng mà nói “Tôi không phải là anh hùng”, nhưng, hàng ngàn chiến sĩ cũng như dân sự đã và đang chiến đấu và làm việc tại thành Baghdad, những ngừơi đã từ chiến trường trở về quê hương bình an, đã tuyên dương ông là một anh hùng.

Tưởng cũng nên nói sơ qua về NGÔI SAO ĐỒNG (The Bronze Star).

Đây là một huy chương chỉ dành cho những kỳ công  nguy hiểm chết người đã thực hiện ngay tại chiến trường. Vinh dự này phải  được chấp nhận của binh chủng Bộ Binh U.S. và chỉ dành cho nhân vật nào có kỳ công đặc biệt  trên mức bình thừơng.”

*2008: USS Makin Island.

Tôi được gởi qua Pascagoula Mississippi để giúp HQ hoàn tất xây dựng chiếc tàu chiến USS Makin Island LHD-8. Xưởng đóng tàu này đã bị tàn phá trong cơn bão Katrina và thời gian hoàn tất con tàu đã trễ mất 3 năm sau dự tính. Chúng tôi thiết lập việc kiểm soát và giám sát hãng N. đã trúng thầu phụ trách để xây dựng tàu. Chúng tôi tìm thấy nhiều bộ phận của tàu bị họ sơn phết lên để che phần rỉ sét, hư hỏng và phải tốn khoảng 8 tháng mới sửa xong.

Tháng 7 năm 2009 chúng tôi mới khởi hành từ Pascagoula tiến tới Nam Mỹ.

Trong thời gian tạm dừng qua cảng và cũng là lần đầu tiên ghé thăm hải cảng Rio De Janeiro, chiếc tàu lại bị hư hại trong bộ phận computer software và bánh lái làm mất khả năng chỉ huy. Thông thường, những chiếc tàu có thể điều khiển từ trên đầu cầu (bridge) hay từ bên dưới trong một căn phòng nằm ngay trên bánh lái được gọi là “after steering” vì vậy, để giải quyết vấn đề nầy,  chỉ cần đưa ra lệnh chỉ huy tới after steering, chúng tôi có thể thành công trong việc điều khiển và di chuyển con tàu một cách an toàn.

Hướng quay về San Diego thật bình an. Chúng tôi đi thông qua Straights of Magellan, viếng thăm Brazil, Valparisa Chile, và Lima Peru.

Các cảng ở Valparisa Chile và Lima Peru thực sự rất tốt. Các thực phẩm ở Peru có thể cho là ngon nhất trên thế giới, và những người dân rất thân thiện. Đó là một đất nước nghèo, chúng tôi đã đi và sơn một trường học vào ngày thứ hai vô cảng, nhóm dưới quyền tôi cười và nói họ chưa bao giờ thấy một sĩ quan biết sơn!

Trong khoảng thời gian ba năm trên tàu này, tôi đã học được cách lái một tàu chiến HQ. Mặc dầu ngành chuyên môn của tôi là Aviation Maintenance and Engineering, nhưng ông Captain kêu tôi lên đầu cầu cùng với ông. Captain Landers là một phi công P3 và trong 20 năm qua ông đã không lên tàu, vậy mà lần này với chức vụ Commanding Officer, đứng chỉ huy chiếc USS Makin Island. Lúc đó ông nhanh chóng nhận ra rằng toàn thể đoàn thủy thủ trên tàu rất thiếu kinh nghiệm và cần huấn luyện.

Trong một phiên gác, vào lúc 11 giờ đêm chúng tôi khám phá ra một ống nước bị bể làm ngập ba tầng ngăn phía bên trái. Lúc đó tôi giữ chức Senior Officer nên đã hành động ngay lập tức để ngăn chặn cơn ngập lụt, bơm nước ra bên hông khỏi tàu và sửa chữa chỗ rỉ. Captain Landers đã tỏ ra rất cảm kích, nói rằng ông tin tưởng vào sự xét đoán, khả năng hành động khi cần thiết của tôi, vì vậy, ông bảo tôi đến đầu cầu và học cách điều khiển tàu chiến. Ông muốn những sĩ quan trưởng thành, có kinh nghiệm, giúp ông. Mặc dù tôi không có kinh nghiệm điều khiển tàu, chỉ trong vòng một vài tuần họ đã cho tôi nhiệm vụ một phần trên tàu và phong chức Officer Of The Deck, chức vụ này có nghĩa là tôi phụ trách điều khiển tàu trên biển khi Captain không có mặt trên đầu tàu. Việc này thật ra rất quan trọng và thật khó khăn, bởi vì sự an toàn của chiến hạm và thủy thủ đoàn nằm trong tay tôi.

* Đánh Cờ Tướng, tranh giải Nato Chess Championship

Từ khi lên 8 tuổi tôi biết đánh cờ tướng do Ba tôi dạy. Năm 1981, tôi bắt đầu dự đấu giải cờ tướng, được xếp lên hàng chuyên gia cờ tướng của quốc gia vào năm 1983.

Năm 1984, tôi chơi cờ trong buổi dự thi giải US Open chess championship tại Dallas Texas. Khi gia nhập HQ, đã có nhiều năm tôi không thể dự những trận đấu cờ. Đến năm 2002, HQ nhận được quỹ để gởi thủy thủ đến dự các giải vô địch cờ Nato Chest Championship. Vì đã từng tham dự giải vô địch cờ gọi là Inter-Service Chess Championship ở Tucson, do đó tôi đủ điều kiện dự giải vô địch cờ Nato Chess Championship tại Brussels Belgium. Đó là một giải đấu quốc tế rất cao và tôi đã đánh một số đường cờ tướng hay nhất của tôi từ trước tới giờ. Tôi đã thắng một số giải lớn và cũng bị thua một số, nhưng nhiều chuyên gia cờ tướng quân sự từ nước ngoài như Germany, Turkey, France, England, đều nhớ về tôi từ lần đấu ấy.

Năm 2008, sau khi trở về từ Iraq, nhờ chơi cờ tướng đã giúp tôi phục hồi tinh thần.

 * 2012, Mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70

Ngày 01 Tháng Chín Năm 2011, 25 năm sau bước chân đầu tiên tới trại huấn luyện, tôi được thăng chức Commander, Đại tá Hải quân.

Ghi nhớ lại thời gian qua, bao nhiêu kỳ chuyển quân, hoàn thành biết bao nhiệm vụ nguy hiểm, những thương tích, thời gian phải sống xa gia đình, giờ đây, trở thành một chỉ huy, cảm thấy giống như niềm vui khi đội football New Orleans Saints cuối cùng giành cúp Superbowl.

Đó là một ngày nắng ấm San Diego, từ Los Angeles và Orange County, Mẹ tôi, các dì, cậu mợ Long, dượng David, anh chị em bà con và một số bạn đồng nghiệp đã có mặt. Được tổ chức tại một công viên nhỏ trên Naval Base Coronado ngay bên kia đường đối diện chiếc hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70, buổi lễ diễn ra rất tốt đẹp.

Sau khi tuyên bố tôi được thăng chức Đại tá, Captain Wilson đã chuyển phần phát biểu ý kiến qua tôi.

Tôi đã nói:

– … lý do tôi lên cấp Commander ngày hôm nay, một phần cũng là nhờ những hy sinh đầu tiên từ bên mẹ và những chịu đựng của vợ con tôi. Mẹ rời khỏi quê hương Việt Nam và đến một đất nước mới với những bàn tay không, để đám con có một cuộc sống tốt hơn và tôi là một người trong đám con được hưởng bởi sự lựa chọn hy sinh ấy…

 Siêu Hàng Không Mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70 rời vịnh San Francisco
Ngay sau buổi lễ, toàn thể gia đình tôi đã lên quan sát chiến hạm Carl Vinson CVN-70.

Như chiếc USS John C. Stennis, USS CVN-70 là một trong 10 siêu hàng không mẫu hạm (Supercarriers) của nhóm tàu có tên Nimitz Class Carrier, là phi đạo cho chiến đấu cơ hoạt động trong binh chủng Hải quân Hoa Kỳ. Chiếc tàu này nổi tiếng vì nó đã tung ra các đợt tấn công đầu tiên trên không ở Afghanistan sau 9/11 và cũng chính nó là chiếc tàu đem thi thể Osama Bin Laden thủy táng trên biển.

Đấy cũng là tàu chiến kế tiếp của tôi, và tôi nhận lệnh trình diện trên tàu này vào tháng Tư năm 2012. Tôi đã mong đến ngày nhận công việc mới bởi vì đó được coi là một vị trí sĩ quan chỉ huy, có 500 thủy thủ làm việc cho tôi, phụ trách việc bảo trì tất cả số máy bay trên tàu.

Cuộc sống trong Hải quân Hoa Kỳ nhiều khi khó khăn nhưng cũng có những lúc rất thích thú. Tôi thích ngửi mùi biển mặn của đại dương, cảm giác của con tàu khi nó di chuyển trong nước, tình đồng đội của phi hành đoàn, và quan trọng nhất, sự hiểu biết rằng những gì chúng tôi làm trực tiếp để bảo vệ đất nước của chúng ta.

Nhiều thủy thủ chỉ cần ai đó để tâm sự, để chỉ cho họ đúng hướng, hoặc một ai đó để làm gương cho họ noi theo. Tôi đã từng là một thủy thủ, -một “Mustang”, tên lóng để gọi những người đi từng bước từ mức thấp nhứt lần lần lên cao theo cách thi cử và khả năng làm việc- nên tôi sẳn sàng làm gương cho họ. Theo tôi, con đường theo cách tôi đi trong HQ là một trong những con đường khó khăn nhất Ci để thực hiện. Hầu hết các sĩ quan đều ra trường từ học viện HQ hay từ trường đào tạo sĩ quan.

Bên cạnh những điều khó nhọc ấy, là sự nôn nao phấn khởi mỗi khi tàu ghé bến viếng thăm các nước mới. Tôi yêu Singapore và tin rằng, đây là thành phố hiếm lạ sạch nhất trên thế giới. Hồng Kông ồn ào, đầy sức sống. Dubai thật quyến rũ. Những chuyến tàu đã đưa chúng tôi đến Seattle và Hobart Tazmania, cả hai thành phố đẹp khỏi chỗ chê.

Chúng tôi đã có một thời gian thật vui khi viếng thăm San Francisco năm 2010, nhân dịp tuần lễ kỷ niệm của những hạm đội. Tàu chúng tôi thả neo ngay sát cầu tàu, ngay bên trong trung tâm thành phố. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là sự nồng hậu hiếu khách của những người dân và đồ ăn Tàu ở San Francisco rất ngon.

Có rất nhiều điều tôi đã tham gia thông qua HQ. Đánh golf tại Hawaii, Iceland và Bermuda, lặn sâu dưới biển tại Bahrain, viếng thăm một nhà máy làm chocolate bên Úc và tôi đã đi một chuyến xe lửa đến viếng tu viện có 10,000 Phật ở Shatin bên Trung Quốc.

Paul trong cuộc tiếp tân trên mẫu hạm khi CVN-70 thăm Úc trong Tháng Tư 2012.  Hình dưới:
 tác giả Long Mỹ được ông ngoại bế trên tay (ít tháng trước khi ông ngoại bị sát hại trong trận công kích đợt 2 – Mậu Thân 1968).

* Ngày 24 tháng Tư , 2012  

Báo chí ở nước Úc đã đăng tải bản tin loan báo CVN-70 với hàng ngàn thủy thủ đã tới cảng Fremantle:

Vào lúc 18:56:01, ngoài khơi Gage Roads cảng Fremantle, Commander của USS Carl Vinson CVN-70, chiếc hàng không mẫu hạm Mỹ thả neo tại Fremantle đã tuyên bố Úc châu là một ‘bạn tốt’ về chiến dịch hợp lực phòng thủ.

Mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70, với chiều dài 340 mét và có sức chứa hơn 75 phi cơ, đã được tuần dương hạm USS Bunker Hill kèm theo.

Rear Admiral Thomas Shannon phát biểu rằng Hoa Kỳ xem mối quan hệ với Úc châu là một sứ mệnh chung rất  quan trọng.

Ông nói: “Chúng tôi đến đây lần này, để chứng minh sự cam kết từ binh chủng Hải quân và quốc gia chúng tôi trong việc đảm bảo an ninh, ổn định hòa bình và thịnh vượng trong khu vực này.”

Có hơn 4,700 thủy thủ trên hai chiếc tàu đang tiếp cận để hoàn thành một đợt chuyển quân hoạt động trong vòng sáu tháng mà hai chiếc tàu này sẽ đưa họ đến Trung Đông, Ấn Độ và Hồng Kông.

Sau khi trợ giúp cho quân đội Mỹ tại Trung Đông, gần đây, các tàu chiến này đã tham gia trong một cuộc tập dợt với Hải quân Ấn Độ.

Commander phát biểu rằng một số phi hành đoàn sẽ tham gia vào lễ kỷ niệm ANZAC Day vào ngày mai, bao gồm cả diễn hành chung trong buổi lể hội. Một số khác sẽ bỏ ra năm ngày để hoạt động tình nguyện cho cộng đồng, bao gồm cả bệnh viện Parkerville Children’s Hospital và Princess Margaret Hospital.

Sau chuyến thăm Úc, mẫu hạm CVN-70 tới quần đảo Hawaii.

 USS Carl Vinson (CVN-70) đang thay đổi hải trình.

USS Carl Vinson (CVN-70) và Tuần Dương Hạm USS Bunker Hill CG52  (có tên khác là Ticonderoga trang bị hỏa tiễn định vị).   Hình dưới: Hình độc USS Bunker Hill CG52 chụp từ đài chỉ huy USS Carl Vinson và nhóm biểu dương sức mạnh trong một cuộc tập trận với hải quân Á Căn Đình (Agentina).
Quả là một quá trình chuyển đổi đầy thách thức. Hàng trăm thủy thủ đang phụ thuộc vào tôi. Để giúp đỡ, dẫn đường họ, bắt buộc tôi phải có các quyết định đúng và làm một vị chỉ huy gương mẫu.

Hồi còn nhỏ, có bao giờ tôi nghĩ rằng sẽ yêu thích HQ, hiến tất cả tình thương để phục vụ quê hương trên biển cả, rằng tôi vẫn và sẽ ở đây 26 năm sau đó để bây giờ thành một chỉ huy trưởng.

Tôi thấy đất nước này có nhiều cơ hội hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, nhưng chính mỗi người phải quyết định và sẵn sàng cho những bước tiến của mình.  kế hoạch của tôi là nắm lấy HQ để đạt được thành công mà tôi mong muốn. Tất cả các mục tiêu mà tôi đạt được, nền giáo dục tôi có, tương lai tôi đã nắm giữ là nhờ sự giúp đỡ của Hải Quân Mỹ cùng với sự hậu thuẫn của gia đình và những lời khuyến khích của dì Thư “sĩ nông công thương binh, cố gắng sẽ thành công”.

Là đứa con hai giòng máu, Mỹ-Việt, ngày xưa mẹ phải dùng nón che mặt bảo vệ tôi, ngày nay tôi hãnh diện trân trọng đội lên chiếc nón binh chủng Hải Quân Hoa Kỳ.

Tôi mong ước sâu xa, ngày nào đó, từ đất cha, trên hàng không mẫu hạm CVN-70 sẽ thả neo ngoài khơi quê mẹ, sẽ đặt chân lên Sài Gòn và có dì Thư từ Mỹ bay qua đón.

Mới đây, dì Tám có gởi bằng email qua cho tôi nghe một bài ca:

“Cùng nhau đi tới Saigon                                    
Cùng nhau đi tới Saigon                                       
Thủ đô yêu dấu nước Nam tự do …” *

Tôi mơ ngày hai dì cháu sẽ có lúc cùng ca bài này tại Saigon, nơi tôi đã rời xa khi mới hơn ba tuổi.  Chắc chắn  dì Thư sẽ đưa tôi về thăm ngôi nhà thơ ấu ở Phú Lâm, ghé xem nhà bảo sanh Đức Chính là nơi tôi được sinh ra. Tôi sẽ được thấy tận mắt miền đất quê ngoại mà mẹ tôi thường nhắc.

Và tôi, sẽ mãi mãi nhìn ra đại dương để nhớ đến ông ngoại tôi, với lòng thương yêu vô bờ bến, đã đặt tên cho tôi, Trương Long Mỹ, năm 1967, tại Sài Gòn, miền Nam Việt Nam./.

Paul Long Mỹ Choate
Nguyên tác Anh ngữ
Trương Kim Hoàng Thư
dịch và viết thêm.

Ghi chú: (*) Bản nhạc Ghé Bến Sài Gòn của Văn Phụng.

Paul LongMy Choate & Trương Kim Hoàng Thư.
 Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

Viết Về Nước Mỹ – Việt Báo (hồi ký phần 1)


“I am not Hero.” – Paul LongMy Choate.

Trung Tá Hải Quân Paul LongMy Choate trên hình bìa của báo Almanac trong dịp nhận huy chương cao quý Bronze Star Medal (ngôi sao đồng) về chiến công đặc biệt tại mặt trận I-Raq.

Bài đọc suy gẫm:  Blog 16 xin hân hạnh trích đăng hồi ký “I’m not Hero” hay  “Hồi Ức Tháng Tư” của tác giả Long Mỹ. Người dịch: Trương Kim Hoàng Thư. Bài viết về giai đoạn công tác tại I-Raq của vị Trung Tá mang hai giòng máu Mỹ Việt hiện đang phục vụ trong binh chủng Hải Quân Hoa Kỳ. 16 ghi nhận thế hệ thứ hai của người Việt Nam tị nạn đang có những đóng góp rất tích cực nơi quê hương mới.  Hình ảnh chỉ có tính cách minh họa.

Hồi Ức Tháng Tư Của Long Mỹ

Tác giả:  Paul LongMy Choate & Trương Kim Hoàng Thư

 

“Hồi Ức Tháng Tư của Long Mỹ” là bài viết của Paul LongMy Choate, Trung Tá Hải Quân,  một cấp chỉ huy trên Hàng Không Mẫu Hạm nguyên tử lớn nhất của Hoa Kỳ USS CARL VINSON (CVN-70). Đây là con tầu đã tung ra các đợt tấn công đầu tiên trên không ở Afghanistan sau biến cố 9/11 và cũng chính nó đem thi hài Osama Bin Laden thủy táng trên biển. Tháng Tư 2012, cũng con tầu này đã tiến vào Thái Bình Dương, thăm Úc, đánh dấu việc Hoa Kỳ chuyển trọng tâm chiến lược sang Á Châu.

Paul Long Mỹ Choate sinh tại Sàigòn năm 1967, bố Mỹ – mẹ Việt, là cháu ngoại của gia đình họ Trương, có các bà dì ruột là những tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ  những năm đầu tiên và tác giả Trương Ngọc Bảo Xuân từ 2005 đã là thành viên ban tuyển chọn chung kết.

Rời Việt Nam khi mới 3 tuổi rưỡi,  Hồi ức của Long Mỹ được viết bằng Anh ngữ,  Trương Kim Hoàng Thư giúp dịch sang Việt ngữ và viết thêm phần hồi ức “hậu phương.” Phần hai. Tiếp theo và hết.

* * *

*Tiền Tuyến.

9/11/2001, ngày kinh hoàng lịch sử ấy, chúng tôi đang trên hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis để huấn luyện thực tập sinh viên phi công Hải Quân (HQ).

Thông báo của Captain Gallagher đánh thức chúng tôi bằng máy phóng thanh IMC intercomp rằng những kẻ khủng bố đã tấn công nước Mỹ.

Ông nói rằng tất cả nhiệm vụ của chúng tôi lúc đó, phải chuyển qua công tác khác. Chúng tôi lập tức được bố trí sang Trung Đông để tham gia cuộc chiến. Ngay buổi chiều hôm đó, HQ đã cho 45 chiến đấu cơ hạ cánh trên chiến hạm. Từ đấy, Ông Admiral và Captain cùng bay các phi vụ tuần tra trên bầu trời của Los Angeles. Chúng tôi ở ngoài khơi liên tiếp 3 tuần, sau đó được lệnh về nhà trong thời gian rất ngắn để lấy thêm vật dụng, nói lời tạm biệt với gia đình rồi chuyển tiếp đến North Arabian Sea.

  USS John C. Stennis [CVN 74] Hàng Không Mẫu Hạm

Chiếc USS John C. Stennis CVN-74 là một chiến hạm nguyên tử hạt nhân (Nuclear Aircraft Carrier) và được coi là chiến hạm mạnh nhất từng được chế tạo. Nó dài tới 1,074 feet (327.355m), có thể di chuyển với tốc độ 35 kts (1 knot = 1.151 mph = 1.852 kph), sức chứa hơn 70 phi cơ, và gần 5,500 sĩ quan cùng thủy thủ.

Đây là tàu chiến đầu tiên của tôi. Chúng tôi lênh đênh trên biển cả 110 ngày dài.

Cuộc sống trong HQ không phải là một cuộc sống dễ dàng. Trên tàu chiến HQ thì không có gì là riêng của mình. Một người phải rất quyết tâm để có thể chấp nhận lối sống xa nhà nhiều ngày tháng liên tục trên tàu, dù có chật hẹp, gò bó, thiếu thốn, thức ăn hầu hết là đồ hộp, đông lạnh vv…vv…, vẫn giữ vững sức mạnh từ tinh thần đến thể xác để thi hành nhiệm vụ một cách hoàn hảo. Tuy nhiên, nhiều thủy thủ vẫn cần sự giúp đỡ, nhất là về phương diện tinh thần.

Là một sĩ quan, công việc của tôi là đặt thủy thủ vô một vị trí để họ thành công, để loại bỏ tất cả các rào cản, để đảm bảo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người. Có tới 90% thủy thủ trên tàu chiến HQ được bố trí đến North Arabian Sea, tung ra các phi vụ ném bom tại Afghanistan và hầu hết số nầy dưới 21 tuổi và lần đầu tiên xa nhà. Chúng tôi huấn luyện những người trẻ mới trưởng thành và biến họ thành những thanh niên nam nữ dũng cảm.

*Năm 2006, tháng 11, Iraq.

Đang là chủ sự của Trung Tâm Fleet Readiness Center Southwest (FRCSW) chuyên việc thử chất nổ, tôi được gởi tới Iraq để giúp binh chủng bộ binh. Đặc trách tới Division Special Troops Battalion, 1st Calvary Division, U.S. Army, tôi chịu trách nhiệm bao gồm Căn Cứ 12 Forward Operating Bases (FOB).

Một kế hoạch chiến tranh mới có tên là “surge” cho phép các chiến sĩ rời khỏi căn cứ và sống hòa lẫn với người dân Iraq, nhưng kế hoạch này cực kỳ nguy hiểm bởi vì rất khó để có thể biết ai là kẻ địch. Hơn nữa, kế hoạch surge bị khựng lại vì những quả bom cài đặt bên đường, gọi là “improvised explosive device” (IED) được bọn khủng bố điều khiển bằng cell phone, làn sóng radio và remote control.

Bom mìn tự chế được kích hoạt từ xa gây nhiều thiệt hại đáng kể. Hình dưới: Chiếc quân xa bị trúng mìn tại Bangdad.

Trong vòng ba năm qua đã có hơn 100,000 vụ tấn công bằng IED và đó là lý do tại sao họ  đội Hải quân  được lệnh qua tiếp sức.

Nhiệm vụ của tôi là cài đặt một hệ thống chống lại những quả bom vệ đường ấy, gọi là “special jamming electronics systems” trong xe. Hệ thống này có khả năng làm ngẹt đường dây điện thoại di động, phá hủy, vô hiệu hóa băng tần thu của máy bấm điều khiển, ngăn chặn trước khi bom bùng nổ. Chúng tôi cũng  huấn luyện các chiến sĩ cách sử dụng, sửa chữa và phá vở hệ thống IED.

Có rất nhiều trở ngại và những thiếu thốn phải đối phó trong thời gian gây dựng nguyên một trung tâm làm việc. Chúng tôi phải xây một cơ sở, đào đường hầm dài hai miles để chạy đường dây Internet, điện lực, điện thoại, phải cho công tra cung cấp nước uống và nhà vệ sinh di động.

Tại Iraq, mỗi ngày có rất nhiều đoàn xe quân đội khác nhau (HMVV, Strikers, Bradleys, PLS, và những loại xe chuyên chở hạng nặng) vào khu của tôi để được giúp đỡ hay điều chỉnh sửa chữa. Tại căn cứ, dưới quyền tôi có một cấp trưởng và hơn 200 nhà thầu dân sự Hoa Kỳ tại khu này và nhiều nơi khác trong cả nước.

Căn cứ của tôi cài đặt hơn 12,000 hệ thống. Điều này cho phép nhiều chiến sĩ rời khỏi căn cứ an toàn để thực hiện nhiệm vụ của họ và điều quan trọng nhất là sự thành công của kế hoạch “surge”. Điều đáng mừng, những vụ  chiến xa quân dân sự bị nổ dọc đường đã giảm xuống rất nhiều, kể như, có rất nhiều mạng sống đã được cứu trong thời gian nhóm chúng tôi thực hiện công tác ấy.

Sự cần thiết và mục đích chính của chúng tôi là giúp đỡ chiến sĩ để thành công trong cuộc chiến này, đem về quê hương càng nhiều càng tốt, những quân nhân và dân sự.

Để việc làm được suông sẻ và không phí thì giờ vì mỗi chiếc xe lăn bánh trên đường, mỗi giây phút trôi qua là mạng sống của binh sĩ và dân sự bị đe dọa, tôi áp dụng phương pháp cải tiến, làm việc theo dây chuyền sản xuất cho nhanh. Tất cả các dụng cụ, máy móc, mọi thứ cần thiết trong mỗi nhiệm vụ, những gì không quan trọng trong công việc đã được cắt giảm tới mức tối đa. Lúc đó chúng tôi có một đội ngũ bảo trì và một đội ngũ cài đặt, tôi phối hợp cả hai thành một đội và huấn luyện tất cả binh sĩ hai đội thông thạo cả hai việc bảo trì và cài đặt.

Khi mới thành lập căn cứ, việc làm này tốn khoảng 2 tiếng 30 phút để cài đặt một hệ thống, khi thay đổi cách làm, chúng tôi đã giảm xuống chỉ cần 30 phút là xong.

Tôi không thích bay trên không phận Iraq! Chiếc trực thăng Blackhawk phải bay rất  thấp, tầm cao khoảng 200 feet (cở 61m) ngang đỉnh cây, tôi nhìn xuống quan sát. Thành phố Baghdad lúc đó rất hoang tàn đổ nát, rác rưởi phủ đầy  đường, rác bao trùm các tòa nhà đã bị phá hủy bởi chiến tranh. Người nghèo ở khắp mọi nơi, những ngôi nhà cũ mục, xây bằng đá và bùn với tuổi thọ chắc đã hơn ngàn năm. Trong thành phố, tôi thấy còn rất nhiều xe di chuyển trên đường, một đứa bé đang chơi trước sân trường, nhưng ở nơi khác, cả làng đang bốc cháy. Vào ban đêm nhiều nhà chỉ có ánh sáng lóe ra từ một ngọn lửa đốt ngoài sân vì cả thành phố không có điện. Các vùng nông thôn là những bãi đất hoang loang lổ đầy hố. Tuần trước đó, tôi đã bay đến nhiều khu chuyển tiếp điều hành cơ sở Forward Operating Bases (FOB) để quan sát sinh hoạt của những trại quân khu. Tôi đã bay đến Rustamayah, Kalsu, Baghdad Green Zone, Falcon, Loyalty và Taji.

Những điều chúng tôi đã học được là kẻ thù khủng bố này rất nguy hiểm và thông minh. Đám khủng bố bị chúng tôi tiêu diệt chỉ là những đám lẻ tẻ ngu xuẩn, nhưng đám khủng bố thật sự thì liên tục thay đổi cách tiếp cận để tấn công chúng tôi. Khi bay qua trại Stryker gần sân bay Baghdad, vài lần chúng tôi bị tấn công bằng mortar và súng nhỏ (small arms fire), nhưng tôi tương đối an toàn. Một số căn cứ khác bị tấn công hàng ngày. Tại căn cứ Loyalty thành phố Sadr, đã có một vụ nổ bom xe phía bên kia bức tường cách tôi chừng khoảng 60m và có rất nhiều chiến sĩ chạy sang ẩn núp bên trong tòa nhà của chúng tôi.

Sự căng thẳng của chiến trường đã đến mức không thể chịu đựng nổi. Mỗi đêm bị tấn công bằng mortar. Mỗi ngày mỗi thêm người chết. Tại Baghdad tôi đã không thể gọi là “ngủ” trong 3 tháng. Lý do giúp tôi giữ vững vị trí chỉ huy của mình là, khi biết rằng càng nhiều bộ phận IED chúng tôi cài đặt, càng có nhiều chiến sĩ có thể được cứu, và càng nhiều kẻ khủng bố bị tiêu diệt.

Một lần địch tấn công, mặc dù đã hết sức cẩn thận tôi cũng đã ngã nhào và bị chấn thương trên đầu.

Vào mùa hè, có thế nói Iraq là một nơi nóng nhất trên thế giới, nhiệt kế có thể tăng hơn 120 độ, cộng thêm 40 pounds của bộ quân phục áo giáp. Bất cứ lúc nào đi ra ngoài, sức nóng có thể làm mình ngộp thở. Nhiều binh lính tự dưng ngã ra chết mà không hiểu nguyên do.

Điều mà chúng tôi cảm tạ là bộ đồ trận ACU, thoải mái nhất từ trước đến giờ so với những bộ khác, thậm chí tốt hơn cả quân phục HQ thời tôi còn mặc quần “bell bottom dungarees”.

Thế rồi thời tiết thay đổi.

Trời lạnh và mưa thường xuyên, biến tất cả mọi thứ thành bùn – làm tôi nhớ tới những phim đen trắng về chiến tranh lạnh (cold wars). Bùn và Mưa!

Một ngày nọ, con đường trong phố bị cấm lưu thông và lúc đó có một đoàn ba xe buýt màu đen chạy ngang. Tôi nhìn mà không biết có Saddam Hussein trong đoàn xe buýt ấy cho đến khi tôi nghe tin tức đêm đó.

* 2007 Giáng Sinh, Iraq.

Giáng sinh bên Iraq cũng không đến nỗi quá tệ. Chúng tôi đã có một bữa ăn tuyệt ngon tại hội trường, vì đó là món tôi rất thích, prime rib. Lúc ở trại FRC Baghdad, ngoài việc bảo trì chúng tôi lãnh luôn phận sự phân phát những gói quà từ các tình nguyện viên khắp nơi trên Hoa Kỳ gửi sang chiến sĩ khoảng một tuần trước lễ Giáng sinh. Đây là những gói quà gọi là “care packages”. Dạo đó chúng tôi nhận được 20 thùng cạc-tông, kích thước mổi thùng là 4 feet X 4 feet, chứa hàng trăm gói quà nhỏ, trong đó gồm có bánh ngọt của nhóm hướng đạo, xà-bông gội đầu, dao cạo râu, kem đánh răng, dvd, v v…..

Nhìn nét rạng rỡ trên khuôn mặt của những binh sĩ trẻ, thủy thủ, thủy quân lục chiến lúc họ nhận được gói quà này, tôi nghĩ rằng đó là sự khuyến khích rất hiệu quả cho họ khi hậu phương nghĩ tới tiền tuyến.

Sau khi hoàn thành công tác tại Irag, tôi được hồi hương. Một số binh sĩ đã không may mắn như vậy. Nhiều người đã thành tử sĩ như đã xảy ra trong mọi cuộc chiến.

Tôi nhớ hoài một  nữ quân nhân canh gác cho khu ăn. Bị tấn công bằng mortar, mặc dầu cô mặc áo giáp toàn thân đầy đủ nhưng một mảnh nhỏ của viên đạn trái phá (shrapnel) đã xuyên qua và đâm thẳng vào trái tim. Cô ngã xuống, hai tay vẫn ôm chặt khẩu súng, đôi mắt xanh trong vẫn mở trừng trừng. Lúc đó cô đang nghĩ gì? Có lẽ cô không biết mình đã chết. Gia đình cô hẳn đang trông đợi cô trở về! Và khi về nhà, cô nằm trong chiếc quan tài phủ màu cờ.

Cô mới 19 tuổi, bằng tuổi con tôi. Cô nằm xuống khi cả cuộc đời còn trước mặt.

Hai binh sĩ khác đã mất mạng trong một đoàn hộ tống. Một người sửa soạn rời khỏi căn cứ và người kia được phái tới để thay thế anh. Người lính cũ đang chỉ người lính mới nơi nào là lĩnh vực nguy hiểm, nơi nào cần tránh, đùng một cái, quả bom cài bên lề đường nổ tung, banh xác cả hai.

Chuyện khác, căn cứ Victory tại Baghdad, có những con kinh đào rất sâu, vào ban đêm một số đường không đèn và rất tối, có hai binh sĩ mới phái đến, không quen thuộc với căn cứ, lái chiếc Humvee, họ bị thất lạc trong đêm tối và khi quành đầu chiếc Humvee lại, nó bị lọt xuống con kinh, lật úp xuống nước, kẹt trong xe, cả hai đều chết đuối.

Tôi đề cập đến những người này vì chính họ và hàng ngàn người khác thực sự hy sinh mạng sống của mình để phục vụ cho đất nước của chúng ta. Những chiến sĩ ấy, với tôi, đó mới là những anh hùng thật sự!

Tại Iraq, khác biệt giữa sự sống và cái chết đôi khi chỉ là may mắn. Có hai nhà thầu làm việc cho tôi và tôi gửi họ sang Balad Iraq để thi hành một nhiệm vụ. Tôi đưa họ đến sân bay trực thăng nhỏ, gọi là sân bay cho oai nhưng đó chỉ là một cái lều thôi, để thả họ ở đó mà đón chuyến bay khác, nhưng không hiểu vì sao cuối cùng tôi quyết định ở lại chờ cho đến khi máy bay trực thăng đến. Chuyến bay tới trễ và anh linh gác bảo chúng tôi đi ăn trước. Khi chúng tôi trở lại, anh lính báo cho biết chúng tôi lỡ chuyến bay, và rồi tin tức cho hay chuyến bay lỡ ấy bị bắn rơi và thiệt mạng sáu người lính.

Hai anh nhà thầu sợ xanh mặt, cả hai vừa thoát chết.

Lần trở về từ Iraq, tôi cảm nhận thêm nhiều khó khăn hơn so với những cú sốc mà tôi trải qua lúc được gởi ra chiến trận. Một ngày tôi lo tránh bị đạn bắn hoặc bị bom nổ tung lên, qua ngày hôm sau, tôi trở lại California an bình. Dường như có rất nhiều người không hiểu rằng chúng tôi đang đương đầu với một cuộc chiến tranh tàn khốc thực sự tại Iraq và Afghanistan.

Có những lúc tôi là sĩ quan duy nhất từ đơn vị của mình phái qua Iraq, vì HQ chỉ gởi từng người sang Iraq và Afghanistan với một nhiệm vụ đặc biệt là để hỗ trợ nỗ lực tham chiến. Những kinh nghiệm gian khổ không được chia sẻ với các bạn đồng đội hoặc những thủy thủ từ đơn vị của riêng mình, thành ra tôi cảm thấy thật khó khăn và lạ lẫm để cố gắng giải thích về một cuộc chiến gian nan và tình hình khủng khiếp như thế nào.

Ai cũng nói rằng việc khó khăn nhất trong HQ chính là làm vợ của lính HQ và tôi rất đồng ý. Vợ tôi, Tracy, là một người đàn bà tốt nhất. Cô đã phải chịu đựng cô đơn nhiều năm những lúc tôi ra chiến trường, tự mình chăm sóc ba đứa con nhỏ, không biết nếu tôi có được an toàn, hoặc thậm chí tôi có trở về hay không. Các con đã lớn và trưởng thành trong suốt thời gian dài với một người cha bán thời gian. Con trai trưởng của tôi bây giờ 21 tuổi, con gái đã 19, và con trai út 17 tuổi.

Trong mười năm kể từ biến cố 9/11, tôi vắng mặt tổng cộng là 5 năm. Khi quay trở về nhà từ Iraq tôi lâm bệnh trầm cảm và mất ngủ. Đó là thời gian thật khổ não cho Tracy và con, nhưng cả gia đình đã sát cánh và giúp tôi phục hồi. Tôi hiểu mình may mắn vì có nhiều loại vết thương từ cuộc chiến không thể chữa lành. Trong số binh sĩ trở về từ chiến trường, có ngưòi đã phải tự kết liểu đời mình!

Nhưng, dù có tàn khốc đến thế nào đi nữa, chiến tranh đôi khi vẫn cần phải xảy ra; vũ khí có tầm hoạt động sát nhân mãnh liệt tới cỡ nào đi nữa, đôi khi cũng phải sử dụng, để bảo vệ đất nước,  yểm trợ đồng minh và giúp đỡ  những quốc gia yếu thế, chống lại những cường quốc có ý đồ gây hấn, xâm lăng.

Năm 2012, Paul ngày vinh thăng TrungTá Hải Quân và mẹ, Bà Trương Thị Lài, trước mẫu hạm CVN-70. Hình dưới:  Paul cùng Tracy, các con.

 

Paul cùng dì Trương Kim Hoàng Thư (dịch giả, kiêm tác giả)


* Ngôi Sao Đồng

Ngày 6 tháng 12 năm 2007.

Tại quân khu HQ, ông Captain của tôi nói hãy mang gia đình vào trại ngày thứ sáu. Họ làm lễ, Ông Admiral gắn lên quân phục tôi huy chương Ngôi Sao Đồng (Bronze Star Medal).

Hình ảnh và phóng sự về buổi lễ này được in trong tạp chí Almanac FRCSW tháng Jan 2008, có trích đoạn như sau:

“Trung tá Paul LongMy Choate đã trầm trầm lên tiếng trong buổi lễ tuyên dương công trạng và gắn huy chương Bronze Star Medal tại Trung Tâm Fleet Readiness Center Southwest (FRCSW) vào ngày 06 tháng 12 năm 2007, từ tay của Vice Admiral Thomas J. Kilcline Jr., Commander Naval Air Force, cho một kỳ công mà ông đã hoàn tất mỹ mãn trong cuộc chiến đem lại nền dân chủ cho quốc gia Iraq.

“I’m not hero.”

Dù ông đã khiêm nhượng mà nói “Tôi không phải là anh hùng”, nhưng, hàng ngàn chiến sĩ cũng như dân sự đã và đang chiến đấu và làm việc tại thành Baghdad, những ngừơi đã từ chiến trường trở về quê hương bình an, đã tuyên dương ông là một anh hùng.

Tưởng cũng nên nói sơ qua về NGÔI SAO ĐỒNG (The Bronze Star).

Đây là một huy chương chỉ dành cho những kỳ công  nguy hiểm chết người đã thực hiện ngay tại chiến trường. Vinh dự này phải  được chấp nhận của binh chủng Bộ Binh U.S. và chỉ dành cho nhân vật nào có kỳ công đặc biệt  trên mức bình thừơng.”


*2008: USS Makin Island.

Tôi được gởi qua Pascagoula Mississippi để giúp HQ hoàn tất xây dựng chiếc tàu chiến USS Makin Island LHD-8. Xưởng đóng tàu này đã bị tàn phá trong cơn bão Katrina và thời gian hoàn tất con tàu đã trễ mất 3 năm sau dự tính. Chúng tôi thiết lập việc kiểm soát và giám sát hãng N. đã trúng thầu phụ trách để xây dựng tàu. Chúng tôi tìm thấy nhiều bộ phận của tàu bị họ sơn phết lên để che phần rỉ sét, hư hỏng và phải tốn khoảng 8 tháng mới sửa xong.

Tháng 7 năm 2009 chúng tôi mới khởi hành từ Pascagoula tiến tới Nam Mỹ.

Trong thời gian tạm dừng qua cảng và cũng là lần đầu tiên ghé thăm hải cảng Rio De Janeiro, chiếc tàu lại bị hư hại trong bộ phận computer software và bánh lái làm mất khả năng chỉ huy. Thông thường, những chiếc tàu có thể điều khiển từ trên đầu cầu (bridge) hay từ bên dưới trong một căn phòng nằm ngay trên bánh lái được gọi là “after steering” vì vậy, để giải quyết vấn đề nầy,  chỉ cần đưa ra lệnh chỉ huy tới after steering, chúng tôi có thể thành công trong việc điều khiển và di chuyển con tàu một cách an toàn.

Hướng quay về San Diego thật bình an. Chúng tôi đi thông qua Straights of Magellan, viếng thăm Brazil, Valparisa Chile, và Lima Peru.

Các cảng ở Valparisa Chile và Lima Peru thực sự rất tốt. Các thực phẩm ở Peru có thể cho là ngon nhất trên thế giới, và những người dân rất thân thiện. Đó là một đất nước nghèo, chúng tôi đã đi và sơn một trường học vào ngày thứ hai vô cảng, nhóm dưới quyền tôi cười và nói họ chưa bao giờ thấy một sĩ quan biết sơn!

Trong khoảng thời gian ba năm trên tàu này, tôi đã học được cách lái một tàu chiến HQ. Mặc dầu ngành chuyên môn của tôi là Aviation Maintenance and Engineering, nhưng ông Captain kêu tôi lên đầu cầu cùng với ông. Captain Landers là một phi công P3 và trong 20 năm qua ông đã không lên tàu, vậy mà lần này với chức vụ Commanding Officer, đứng chỉ huy chiếc USS Makin Island. Lúc đó ông nhanh chóng nhận ra rằng toàn thể đoàn thủy thủ trên tàu rất thiếu kinh nghiệm và cần huấn luyện.

Trong một phiên gác, vào lúc 11 giờ đêm chúng tôi khám phá ra một ống nước bị bể làm ngập ba tầng ngăn phía bên trái. Lúc đó tôi giữ chức Senior Officer nên đã hành động ngay lập tức để ngăn chặn cơn ngập lụt, bơm nước ra bên hông khỏi tàu và sửa chữa chỗ rỉ. Captain Landers đã tỏ ra rất cảm kích, nói rằng ông tin tưởng vào sự xét đoán, khả năng hành động khi cần thiết của tôi, vì vậy, ông bảo tôi đến đầu cầu và học cách điều khiển tàu chiến. Ông muốn những sĩ quan trưởng thành, có kinh nghiệm, giúp ông. Mặc dù tôi không có kinh nghiệm điều khiển tàu, chỉ trong vòng một vài tuần họ đã cho tôi nhiệm vụ một phần trên tàu và phong chức Officer Of The Deck, chức vụ này có nghĩa là tôi phụ trách điều khiển tàu trên biển khi Captain không có mặt trên đầu tàu. Việc này thật ra rất quan trọng và thật khó khăn, bởi vì sự an toàn của chiến hạm và thủy thủ đoàn nằm trong tay tôi.

* Đánh Cờ Tướng, tranh giải Nato Chess Championship

Từ khi lên 8 tuổi tôi biết đánh cờ tướng do Ba tôi dạy. Năm 1981, tôi bắt đầu dự đấu giải cờ tướng, được xếp lên hàng chuyên gia cờ tướng của quốc gia vào năm 1983.

Năm 1984, tôi chơi cờ trong buổi dự thi giải US Open chess championship tại Dallas Texas. Khi gia nhập HQ, đã có nhiều năm tôi không thể dự những trận đấu cờ. Đến năm 2002, HQ nhận được quỹ để gởi thủy thủ đến dự các giải vô địch cờ Nato Chest Championship. Vì đã từng tham dự giải vô địch cờ gọi là Inter-Service Chess Championship ở Tucson, do đó tôi đủ điều kiện dự giải vô địch cờ Nato Chess Championship tại Brussels Belgium. Đó là một giải đấu quốc tế rất cao và tôi đã đánh một số đường cờ tướng hay nhất của tôi từ trước tới giờ. Tôi đã thắng một số giải lớn và cũng bị thua một số, nhưng nhiều chuyên gia cờ tướng quân sự từ nước ngoài như Germany, Turkey, France, England, đều nhớ về tôi từ lần đấu ấy.

Năm 2008, sau khi trở về từ Iraq, nhờ chơi cờ tướng đã giúp tôi phục hồi tinh thần.

 * 2012, Mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70

Ngày 01 Tháng Chín Năm 2011, 25 năm sau bước chân đầu tiên tới trại huấn luyện, tôi được thăng chức Commander, Trung tá Hải quân.

Ghi nhớ lại thời gian qua, bao nhiêu kỳ chuyển quân, hoàn thành biết bao nhiệm vụ nguy hiểm, những thương tích, thời gian phải sống xa gia đình, giờ đây, trở thành một chỉ huy, cảm thấy giống như niềm vui khi đội football New Orleans Saints cuối cùng giành cúp Superbowl.

Đó là một ngày nắng ấm San Diego, từ Los Angeles và Orange County, Mẹ tôi, các dì, cậu mợ Long, dượng David, anh chị em bà con và một số bạn đồng nghiệp đã có mặt. Được tổ chức tại một công viên nhỏ trên Naval Base Coronado ngay bên kia đường đối diện chiếc hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70, buổi lễ diễn ra rất tốt đẹp.

Sau khi tuyên bố tôi được thăng chức Trung tá, Captain Wilson đã chuyển phần phát biểu ý kiến qua tôi.

Tôi đã nói:

– … lý do tôi lên cấp Commander ngày hôm nay, một phần cũng là nhờ những hy sinh đầu tiên từ bên mẹ và những chịu đựng của vợ con tôi. Mẹ rời khỏi quê hương Việt Nam và đến một đất nước mới với những bàn tay không, để đám con có một cuộc sống tốt hơn và tôi là một người trong đám con được hưởng bởi sự lựa chọn hy sinh ấy…

 Siêu Hàng Không Mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70 rời vịnh San Francisco

Ngay sau buổi lễ, toàn thể gia đình tôi đã lên quan sát chiến hạm Carl Vinson CVN-70.

Như chiếc USS John C. Stennis, USS CVN-70 là một trong 10 siêu hàng không mẫu hạm (Supercarriers) của nhóm tàu có tên Nimitz Class Carrier, là phi đạo cho chiến đấu cơ hoạt động trong binh chủng Hải quân Hoa Kỳ. Chiếc tàu này nổi tiếng vì nó đã tung ra các đợt tấn công đầu tiên trên không ở Afghanistan sau 9/11 và cũng chính nó là chiếc tàu đem thi thể Osama Bin Laden thủy táng trên biển.

Đấy cũng là tàu chiến kế tiếp của tôi, và tôi nhận lệnh trình diện trên tàu này vào tháng Tư năm 2012. Tôi đã mong đến ngày nhận công việc mới bởi vì đó được coi là một vị trí sĩ quan chỉ huy, có 500 thủy thủ làm việc cho tôi, phụ trách việc bảo trì tất cả số máy bay trên tàu.

Cuộc sống trong Hải quân Hoa Kỳ nhiều khi khó khăn nhưng cũng có những lúc rất thích thú. Tôi thích ngửi mùi biển mặn của đại dương, cảm giác của con tàu khi nó di chuyển trong nước, tình đồng đội của phi hành đoàn, và quan trọng nhất, sự hiểu biết rằng những gì chúng tôi làm trực tiếp để bảo vệ đất nước của chúng ta.

Nhiều thủy thủ chỉ cần ai đó để tâm sự, để chỉ cho họ đúng hướng, hoặc một ai đó để làm gương cho họ noi theo. Tôi đã từng là một thủy thủ, -một “Mustang”, tên lóng để gọi những người đi từng bước từ mức thấp nhứt lần lần lên cao theo cách thi cử và khả năng làm việc- nên tôi sẳn sàng làm gương cho họ. Theo tôi, con đường theo cách tôi đi trong HQ là một trong những con đường khó khăn nhất Ci để thực hiện. Hầu hết các sĩ quan đều ra trường từ học viện HQ hay từ trường đào tạo sĩ quan.

Bên cạnh những điều khó nhọc ấy, là sự nôn nao phấn khởi mỗi khi tàu ghé bến viếng thăm các nước mới. Tôi yêu Singapore và tin rằng, đây là thành phố hiếm lạ sạch nhất trên thế giới. Hồng Kông ồn ào, đầy sức sống. Dubai thật quyến rũ. Những chuyến tàu đã đưa chúng tôi đến Seattle và Hobart Tazmania, cả hai thành phố đẹp khỏi chỗ chê.

Chúng tôi đã có một thời gian thật vui khi viếng thăm San Francisco năm 2010, nhân dịp tuần lễ kỷ niệm của những hạm đội. Tàu chúng tôi thả neo ngay sát cầu tàu, ngay bên trong trung tâm thành phố. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là sự nồng hậu hiếu khách của những người dân và đồ ăn Tàu ở San Francisco rất ngon.

Có rất nhiều điều tôi đã tham gia thông qua HQ. Đánh golf tại Hawaii, Iceland và Bermuda, lặn sâu dưới biển tại Bahrain, viếng thăm một nhà máy làm chocolate bên Úc và tôi đã đi một chuyến xe lửa đến viếng tu viện có 10,000 Phật ở Shatin bên Trung Quốc.

Paul trong cuộc tiếp tân trên mẫu hạm khi CVN-70 thăm Úc trong Tháng Tư 2012.

Hình dưới:  Tác giả Long Mỹ được ông ngoại bế trên tay (ít tháng trước khi ông ngoại bị sát hại trong trận công kích đợt 2 – Mậu Thân 1968).

 

* Ngày 24 tháng Tư , 2012  

Báo chí ở nước Úc đã đăng tải bản tin loan báo CVN-70 với hàng ngàn thủy thủ đã tới cảng Fremantle:

Vào lúc 18:56:01, ngoài khơi Gage Roads cảng Fremantle, Commander của USS Carl Vinson CVN-70, chiếc hàng không mẫu hạm Mỹ thả neo tại Fremantle đã tuyên bố Úc châu là một ‘bạn tốt’ về chiến dịch hợp lực phòng thủ.

Mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70, với chiều dài 340 mét và có sức chứa hơn 75 phi cơ, đã được tuần dương hạm USS Bunker Hill kèm theo.

Rear Admiral Thomas Shannon phát biểu rằng Hoa Kỳ xem mối quan hệ với Úc châu là một sứ mệnh chung rất  quan trọng.

Ông nói: “Chúng tôi đến đây lần này, để chứng minh sự cam kết từ binh chủng Hải quân và quốc gia chúng tôi trong việc đảm bảo an ninh, ổn định hòa bình và thịnh vượng trong khu vực này.”

Có hơn 4,700 thủy thủ trên hai chiếc tàu đang tiếp cận để hoàn thành một đợt chuyển quân hoạt động trong vòng sáu tháng mà hai chiếc tàu này sẽ đưa họ đến Trung Đông, Ấn Độ và Hồng Kông.

Sau khi trợ giúp cho quân đội Mỹ tại Trung Đông, gần đây, các tàu chiến này đã tham gia trong một cuộc tập dợt với Hải quân Ấn Độ.

Commander phát biểu rằng một số phi hành đoàn sẽ tham gia vào lễ kỷ niệm ANZAC Day vào ngày mai, bao gồm cả diễn hành chung trong buổi lể hội. Một số khác sẽ bỏ ra năm ngày để hoạt động tình nguyện cho cộng đồng, bao gồm cả bệnh viện Parkerville Children’s Hospital và Princess Margaret Hospital.

Sau chuyến thăm Úc, mẫu hạm CVN-70 tới quần đảo Hawaii.

 USS Carl Vinson (CVN-70) đang thay đổi hải trình.


USS Carl Vinson (CVN-70) và Tuần Dương Hạm USS Bunker Hill CG52  (có tên khác là Ticonderoga trang bị hỏa tiễn định vị).   Hình dưới: Hình độc USS Bunker Hill CG52 chụp từ đài chỉ huy USS Carl Vinson và nhóm biểu dương sức mạnh trong một cuộc tập trận với hải quân Á Căn Đình (Agentina).

Quả là một quá trình chuyển đổi đầy thách thức. Hàng trăm thủy thủ đang phụ thuộc vào tôi. Để giúp đỡ, dẫn đường họ, bắt buộc tôi phải có các quyết định đúng và làm một vị chỉ huy gương mẫu.

Hồi còn nhỏ, có bao giờ tôi nghĩ rằng sẽ yêu thích HQ, hiến tất cả tình thương để phục vụ quê hương trên biển cả, rằng tôi vẫn và sẽ ở đây 26 năm sau đó để bây giờ thành một chỉ huy trưởng.

Tôi thấy đất nước này có nhiều cơ hội hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, nhưng chính mỗi người phải quyết định và sẵn sàng cho những bước tiến của mình.  kế hoạch của tôi là nắm lấy HQ để đạt được thành công mà tôi mong muốn. Tất cả các mục tiêu mà tôi đạt được, nền giáo dục tôi có, tương lai tôi đã nắm giữ là nhờ sự giúp đỡ của Hải Quân Mỹ cùng với sự hậu thuẫn của gia đình và những lời khuyến khích của dì Thư “sĩ nông công thương binh, cố gắng sẽ thành công”.

Là đứa con hai giòng máu, Mỹ-Việt, ngày xưa mẹ phải dùng nón che mặt bảo vệ tôi, ngày nay tôi hãnh diện trân trọng đội lên chiếc nón binh chủng Hải Quân Hoa Kỳ.

Tôi mong ước sâu xa, ngày nào đó, từ đất cha, trên hàng không mẫu hạm CVN-70 sẽ thả neo ngoài khơi quê mẹ, sẽ đặt chân lên Sài Gòn và có dì Thư từ Mỹ bay qua đón.

Mới đây, dì Tám có gởi bằng email qua cho tôi nghe một bài ca:

“Cùng nhau đi tới Saigon
Cùng nhau đi tới Saigon                                       

Thủ đô yêu dấu nước Nam tự do …” *

Tôi mơ ngày hai dì cháu sẽ có lúc cùng ca bài này tại Saigon, nơi tôi đã rời xa khi mới hơn ba tuổi.  Chắc chắn  dì Thư sẽ đưa tôi về thăm ngôi nhà thơ ấu ở Phú Lâm, ghé xem nhà bảo sanh Đức Chính là nơi tôi được sinh ra. Tôi sẽ được thấy tận mắt miền đất quê ngoại mà mẹ tôi thường nhắc.

Và tôi, sẽ mãi mãi nhìn ra đại dương để nhớ đến ông ngoại tôi, với lòng thương yêu vô bờ bến, đã đặt tên cho tôi, Trương Long Mỹ, năm 1967, tại Sài Gòn, miền Nam Việt Nam./.

Paul Long Mỹ Choate

Nguyên tác Anh ngữ

Trương Kim Hoàng Thư

dịch và viết thêm.

Ghi chú: (*) Bản nhạc Ghé Bến Sài Gòn của Văn Phụng.

Paul LongMy Choate & Trương Kim Hoàng Thư.

 Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

Viết Về Nước Mỹ – Việt Báo (hồi ký phần 1)


Viên Đạn Cuối Cùng – Trần Như Xuyên

Anh cứ sợ rồi mình sẽ quên nhau
như con đường nơi đó
như ngày nao trên thềm phố chợ
sáng Chủ Nhật
em chờ anh
vẫn trên cao là những nhánh thông xanh
và dưới thấp là mặt hồ yên lặng
có phải mùa Thu làm mắt em xa vắng
rồi mình sẽ quên nhau…
 ***

Bài đọc suy gẫm: Nhân kỷ niệm ngày 19/6, ngày Kỷ Niệm Thành Lập Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Blog 16 xin hân hạnh chuyển tải  bài viết “Viên Đạn Cuối Cùng” của tác giả Trần Như Xuyên.  Đây là câu chuyện về sự anh dũng, hào hùng trong chiến trận và sự hy sinh cao cả đầy lãng mạn của người lính Cộng Hòa. Hình ảnh minh họa về Ngày Quân Lực 2012 tại San Jose do Nhiếp Ảnh Gia Lê Trí cung cấp. Nhóm chủ trương Blog 16 xin chân thành cảm ơn.

Viên đạn cuối cùng
Trần Như Xuyên

Tháng 8-1974, một trận đánh lớn xẩy ra tại Thường Đức giữa hai Lữ đoàn Nhẩy Dù của Quân lực VNCH và 3 Sư Đoàn quân Bắc Việt, trận chiến rất khốc liệt, sau 3 tháng quần thảo, số tổn thất của hai bên rất to lớn.
Trận chiến đã trôi qua 37 năm, nhưng những người lính Nhẩy Dù năm xưa vẫn không quên âm vang của trận đánh và những đồng đội đã nằm xuống.
Xin mời đọc câu chuyện của một người Đại Đội Trưởng Nhẩy Dù tham dự trong trận đánh này tại Thường Đức.

*********

Tâm Anh bước những bước nhẹ trên hè đường Tự Do, cơn gió lạnh cuối năm khiến nàng khoanh hai tay lại suýt xoa. Những chiếc lá me khô lăn tròn như điệu nhạc luân vũ dưới chân nàng. Sài gòn năm nay được hưởng một cái lạnh khác thường, gần Noel rồi còn gì. Ngang qua Brodard, nhiều cặp mắt trong đó nhìn nàng, còn anh trong đó nữa đâu? Vậy là anh vĩnh viễn xa em rồi… Phải chi anh đừng mê đời lính, phải chi anh đừng mê súng đạn thì giờ này em đâu có cô đơn như thế này. Tâm Anh nhớ lại, cũng là Broadard này một ngày nào đó, ngày hai người còn quấn quýt bên nhau, khi đang ngồi uống nước, ngắm thiên hạ qua lại, bất chợt Chương nắm tay nàng:
– Em, anh đã suy nghĩ kỹ rồi, anh sẽ nhập ngũ, vào Võ Bị Đà Lạt.

Cái ống hút rời khỏi đôi môi xinh xắn, nàng không ngạc nhiên nhưng có bàng hoàng. Tâm Anh chờ đợi ngày này sẽ đến và bây giờ nó đến, vậy mà vẫn không tránh được. Nàng hiểu tính Chương, thời gian gần đây, Chương luôn than phiền về một cái gì đó, không rõ ràng, có lúc Chương bảo sao chàng thấy thành phố này ngột ngạt quá, chỉ muốn xa khỏi đây, có lúc Chương đứng sững nhìn một người lính phía bên kia đường, lẩm bẩm: ”Vậy mà Trung nó chết cũng được nửa năm rồi” -Trung là một trong ba người bạn thân của chàng, cùng đang học Đại học, rồi cả ba bỏ đi lính. Khi mãn khóa, Trung chọn binh chủng Nhẩy dù, hai người kia chọn bộ binh và đổi đi xa, chỉ có Trung thỉnh thoảng về phép, rủ Chương và nàng đi chơi như ngày xưa, ngày mấy người còn vui chơi với nhau chung một nhóm. Trung đen hơn nhưng rắn rỏi, mỗi lần về, Trung say sưa kể về một trận đánh nào đó mà anh tham dự, nàng bắt gặp ánh mắt Chương rực sáng khi nghe Trung nói chuyện. Thế rồi Trung không còn dịp về nữa để kể chuyện chiến trường cho Chương nghe, anh đã hy sinh trong một trận đánh ở đâu đó, nàng không nghĩ Chương lại nối gót theo mấy người kia sớm tới như thế.
Nàng bất chợt hỏi Chương:

– Anh bỏ đi như vậy, còn tình yêu chúng mình, còn em thì sao?
– Thì tình yêu mình cũng vẫn còn đấy chứ em, biết đâu sự xa cách này chẳng là một thử thách cho đôi ta, nếu mình vẫn giữ vững được, nếu mình vẫn chỉ nghĩ đến nhau thì cuộc hôn nhân mới thực bền vững

Cuối năm 1972, chiến trường đã qua đi những trận đánh lớn, tháng giêng 1973, Hiệp định Paris được ký kết đúng với sự mong đợi của Hoa Kỳ và VC. Về phía Hoa Kỳ, có người bảo nhiệm vụ của họ đã xong, tức chiến lược toàn cầu của họ đã hoàn tất, giờ Mỹ có thể rút hết quân về nước, để hai bên VN giải quyết với nhau, đúng ra phải nói là để miền Bắc giải quyết miền Nam vì Mỹ không giữ lời cam kết là sẽ yểm trợ chính phủ VNCH. Trong khi miền Nam đơn độc chiến đấu thiếu cả về vũ khí lẫn viện trợ kinh tế thì CS Bắc Việt lại được sự yểm trợ to tát của toàn khối CS.

Về phía Bắc Việt, ký kết Hiệp định Paris là cơ hội để họ xâm chiếm miền Nam, khi người Mỹ bắt đầu rút quân thì cũng là lúc CS đem quân ồ ạt vượt qua vĩ tuyến 17, chúng hoàn thành con đường đông Trường Sơn để chuyển quân và vũ khí được nhanh hơn, xe cộ và bộ đội rầm rộ chuyển vào như chỗ không người, trước đây chúng không dám ngang nhiên như vậy vì sợ B52 và quân ta phục kích. Hiệp ước Paris qui định ai ở đâu thì yên đó nhưng với VC, có khi nào ta tin được chúng. Kinh nghiệm cái Tết Mậu thân còn đó. Tuy quân VC gia tăng nỗ lực chuẩn bị cho cuộc chiến nhưng chúng vẫn chưa nắm vững không biết người Mỹ có quay trở lại hay không nếu chúng mở các cuộc tấn công lớn. Qua nhiều cuộc lấn chiếm thăm dò, Mỹ vẫn giữ thái độ im lặng, chúng quyết định mở một cuộc tấn công và nơi chúng lựa chọn cho cuộc thử thách này là Thường Đức, nếu chúng thắng cuộc chiến ở đây, chúng sẽ đưa quân thẳng ra biển, chia cắt miền Nam làm hai và sự sụp đổ của VNCH chỉ đếm từng ngày.

Thường Đức là một quận nhỏ thuộc tỉnh Quảng Nam, được tách ra từ Quận Đức Dục, nằm phía Tây Đà Nẵng trên liên tỉnh lộ 4, cách Quốc lộ 1 khoảng 40 cây số. Đây là một điểm chiến lược quan trọng, coi như tiền đồn của của Đà Nẵng. Thường Đức trước kia là một trại LLĐB Mỹ, xây dựng kiên cố với những hầm ngầm bê tông cốt sắt.

Quân trú phòng tại Thường Đức có 2 ĐĐ Địa phương quân, 14 Trung đội Nghĩa quân, tháng 6, 1974, tin tức tình báo cho biết VC đang chuẩn bị lực lượng có thể tấn công Thường Đức. Tiểu Đoàn 79 BĐQ được tăng cường thêm cho Chi khu này, gọi là Chi khu nhưng nó có tính cách chiến lược hơn là yếu tố kinh tế, dân thì toàn là gia đình của binh sĩ trú đóng tại đây, đất đai khô cằn sỏi đá, ba hướng bao quanh là núi cao dốc đứng, chỉ có hướng Đông để ra QL1 là bằng phẳng.

VC tấn công Thường Đức với SĐ 304 (SĐ Điện Biên), SĐ 324 và nhiều Trung Đoàn tăng cường cùng các đơn vị Pháo và xe tăng. Quân trú phòng chống cự mãnh liệt, TĐ 79 BĐQ chiến đấu dũng cảm, gây thiệt hại to lớn cho quân tấn công; phía trú phòng cũng bị thiệt hại, Trung Tá Quân Trưởng bị thương nặng, Th/T TĐT /79 BĐQ cũng bị thương và gọi pháo bắn ngay trên đầu. Sau gần 10 ngày chống cự, với quân số địch quá đông và các họng pháo ở những ngọn đồi chung quanh bắn trực xạ vào Thường Đức, Quận bị thất thủ.

Lo sợ cho Đà Nẵng, Tướng Trưởng xin Bộ TTM cho SĐ Dù tham chiến, Lữ đoàn 1 gồm 3 TĐ: 1,7 và 9 được không vận từ SG bằng C130 xuống Đại Lộc.
Trung Úy Nguyễn thanh Chương, khóa 25 VB Đà Lạt lúc này là ĐĐT của TĐ 1 Nhẩy Dù tham dự cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức, Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù cũng chuẩn bị vào vùng từ Huế.

Đường vào Thường Đức rất bất lợi cho quân giải tỏa, chỉ có một con đường độc đạo là liên tỉnh lộ 4 từ ngoài Đại Lộc tới Thường Đức mà hai bên đường có nhiều ngọn đồi mà VC đã chiếm, thiết lập công sự phòng thủ kiên cố trong vách đá, trong đó có ngọn đồi 1062, từ đây chúng có thể kiểm soát mọi sự di chuyển trên LTL4. VC đã chiếm ngọn núi này trước khi chúng tấn công Thường Đức vì chúng biết thế nào phía ta cũng đem quân giải cứu Quận lỵ này.

Lữ đoàn 1 dàn quân xuất phát mà ưu tiên phải chiếm được ngọn đồi 1062, họ biết là quân VC đã sẵn sàng đợi họ ở đây. Tiểu Đoàn 1 của Chương được chỉ định chiếm ngọn đồi này, đường tiến quân rất khó khăn vất vả, phải băng qua những khoảng trống mà pháo của chúng đã có tọa độ sẵn, rồi các đồi đá phải vượt qua, bứng những chốt Cộng quân cài chung quanh để cầm chân bước tiến của quân Dù. Khi gần tới được gần 1062, TĐ1 đã bị một số tổn thất nhưng nhiệm vụ trước mắt vẫn là làm sao phải chiếm cho được ngọn đồi này để kiểm soát con đường nằm phía dưới dẫn vào Thường Đức.

TĐ1 dàn quân dưới chân đồi 1062, một cái lưng yên ngựa phải vượt qua trước khi tới sát được dưới chân đồi, địch từ trên cao có lợi thế hơn và hầm hố chúng xây dựng trong hốc đá kiên cố với nhưng cây cổ thụ to được chúng cưa làm nóc hầm. Cả hai Đại Đội Dù được pháo binh yểm trợ xung phong chiếm mục tiêu nhưng gặp sức kháng cự mãnh liệt của địch, cối 120 ly và hỏa tiễn 122 ly được địch bắn xối xả vào vị trí quân Dù. Những mục tiêu tác xạ chúng đã tiên liệu trước và tiền sát của chúng từ những ngọn đồi chung quanh gọi pháo chính xác, suốt một ngày, Dù bị cầm chân. Đại Đội Chương mất một Th/U Trung đội trưởng và 5 binh sĩ cùng khoảng một chục bị thương.

Lệnh từ TĐ cho ĐĐ Chương lùi lại, bố trí tuyến phòng thủ đêm lấy sức cho cuộc tấn công ngày hôm sau. Rạng sáng, ĐĐ Chương, bọc qua hướng khác, nơi có nhiều dốc đá thẳng đứng, hướng này địch có lơ là vì không nghĩ Dù sẽ chọn để tấn công. Pháo ta dồn dập đổ xuống đỉnh đồi, địch co cụm trong hầm hố tránh pháo, lính Dù bám từng hốc đá âm thầm leo lên ,khi gần tới đỉnh đồi, họ đồng loạt khai hỏa xung phong. Dù dùng lựu đạn ném xuống hầm, bị bất ngờ, chúng hốt hoảng bung hầm chạy. ĐĐ Chương chiếm được đồi 1062 nhưng ngay lập tức, địch pháo kích dữ dội với đủ loại pháo từ những ngọn đồi chung quanh. Lính Dù nhờ có hầm hố kiên cố sẵn của bọn chúng, tránh được nhiều thiệt hại. ĐĐ Chương được lệnh bố trí giữ ngọn đồi, sáng hôm sau sẽ có một ĐĐ bạn lên tăng cường nhưng tối đó, Chương không thể giữ được ngọn đồi mà suốt ngày hôm nay đã đổ bao xương máu mới chiếm được. Mới chập tối, địch pháo tàn sát ngọn đồi rồi cho nguyên một Trung đoàn xung phong tái chiếm. Ở tuyến phòng thủ phía Tây, Th/U Thành, một Trung đội trưởng xuất sắc của Chương gọi máy cho biết địch rất đông, đang tràn ngập mục tiêu, Thành xin pháo binh bắn ngay trên đầu. TĐ cho lệnh Chương rút xuống, Chương gọi máy cho lệnh, không có tiếng Thành trả lời, tuyến của Thành bị tràn ngập. Thành bị nguyên một băng AK nát hết người. Khi lính của ĐĐ rút hết, Chương xuống sau cùng, chàng gọi pháo dập xuống đỉnh 1062. Lúc Chương đang lao xuống gần chân đồi, một trái pháo nổ ngay cạnh Chương, không biết của ta hay của địch, Chương thấy tối tăm mặt mũi và rồi không biết gì nữa.


Ngày hôm sau, một ĐĐ khác được lệnh tấn công tái chiếm ngọn đồi, họ gặp Chương nằm trên vũng máu, người lính mang máy và cận vệ của anh nằm chết bên cạnh. Chương bị thương rất nặng, pháo cắt đứt một chân anh, mặt phủ đầy máu, Chương được tải thương ngay lập tức. Suốt mấy ngày ở bệnh viện, Chương ở trong biên giới giữa cái sống và cái chết.

Cuối cùng, người ta đã cứu được Chương thoát lưỡi hái của tử thần nhưng không cứu được cái chân của anh, và khuôn mặt, một mảnh pháo chém sạt một bên má. Khi tỉnh lại, Chương biết mình bị thương nặng lắm, cái đầu cuốn trong băng trắng xóa và đau nhức khủng khiếp. Chương cũng biết mình mất mất một chân. Các Bác Sĩ khi thấy Chương đã đủ khỏe, họ cho anh biết sự thực về khuôn mặt, họ nói sẽ cố gắng đắp vá cho anh nhưng không thể nào có được hình hài như xưa.

TĐ cho một người lính thân cận của Chương ở hẳn Bệnh viện để chăm sóc anh cùng với chiếc xe jeep. Đầy, người Hạ sĩ theo Chương từ ngày Chương gia nhập Nhẩy Dù. Đầy là người lo cho anh từ cái ăn, cái ngủ như người mẹ hiền, giờ vẫn cạnh ông thầy. Khi ông thầy bị thương quá nặng, vẫn chăm sóc anh từng li, từng tí. Chương không cho Đầy báo gì Tâm Anh biết, cho đến một ngày, Chương dặn dò Đầy đến cho Tâm Anh biết tin nhưng là một cái tin Đầy thấy khó khăn để nói.
Gần hai tháng nay, Tâm Anh không nhận được thư từ hay tin tức gì của Chương cả, nàng có nghe về những trận đánh xẩy ra với đơn vị Nhẩy Dù ở đâu đó. Một buổi trưa, một cái xe jeep đỗ xịch trước cửa nhà, nàng thấy Đầy bước xuống, Tâm Anh chạy vội ra:

– Chú Đầy, Trung Úy không về hả, có thư không vậy chú?

Đầy không nói gì cả, anh bước vào trong nhà, tay cầm chiếc mũ béret đỏ xoay xoay trong tay.

Nhìn cử chỉ khác thường của Đầy, Tâm Anh biến sắc, nàng đưa tay lên ngực: gì thế này, có chuyện gì xẩy ra cho Chương rồi sao, đừng nói gì không may nghe chú Đầy, sao mặt chú lại buồn thế kia, đừng, chắc không có gì đâu, có gì nói đi, nói đi chú Đầy.

Sau một chút ngập ngừng, Đầy lên tiếng:

– Xin cô bình tĩnh, mời cô ngồi xuống, Trung Úy Chương đã hy sinh, ở mặt trận Thường Đức, quân địch tràn ngập mục tiêu, chúng tôi không lấy được xác Trung Úy, Trung Úy đã chiến đấu dũng cảm nhưng địch đông quá.

Tâm Anh choáng váng mặt mày, nàng buông rơi mình trên ghế, không còn nghe những gì Đầy đang nói tiếp. Thế đấy anh ơi, sao giản dị quá: Trung Úy đã hy sinh. Câu nói thật đơn giản mà như đất trời sụp đổ, bao nhiêu người đã được nghe những câu đơn giản như thế này, bao nhiêu cõi đời tan nát?

Hạ sĩ Đầy đã hoàn thành nhiệm vụ được Chương trao phó, một nhiệm vụ khác thường trong bao nhiêu việc Chương đã bảo anh làm trước đây. Công việc chút nữa đã không hoàn thành khi Đầy nhìn thấy sự đau khổ tột cùng trên gương mặt Tâm Anh. Nhờ là một người lính tác chiến sắt đá nên đã kềm chế được mình vì anh hiểu những gì ông thầy mình muốn cho quãng đời còn lại của ông ấy và nhất là cho Tâm Anh. Đầy cũng thương ông Trung Úy của mình không kém gì Tâm Anh, có điều hai tình thương khác nhau; với Đầy, Chương là một cấp chỉ huy gương mẫu, can đảm và thương yêu binh sĩ hơn cả tình đồng đội, những ngày ở Bệnh viện, đã bao lần Đầy ngăn nước mắt khi nhìn Chương trong hình hài không còn nguyên vẹn.

Tâm Anh bỏ ngang việc học, nàng không còn tâm trí để nghĩ đến sách vở, nàng đi hát để tìm quên. Nhờ làn hơi thiên phú, chỉ trong thời gian ngắn, tiếng ca nàng vút cao trong nền ca nhạc ở Sài Gòn, nhiều nơi săn đón mời nàng hát cho phòng trà của mình, Tâm Anh chọn chỉ hát độc quyền cho Tự Do, một phòng trà mà lúc còn sống Chương rất thích. Ở đây, nàng như thấy Chương của một ngày mà Hey Jude, don’t let me down, ngày hai người quấn quýt bên nhau với tiếng hát của Billy Shane, của Strawberry Four. Nàng cũng thuộc lòng câu thơ Chương làm cho nàng trong một lần lên Đà Lạt thăm Chương về:

Anh cứ sợ rồi mình sẽ quên nhau
như con đường nơi đó
như ngày nao trên thềm phố chợ
sáng Chủ Nhật
em chờ anh
vẫn trên cao là những nhánh thông xanh
và dưới thấp là mặt hồ yên lặng
có phải mùa Thu làm mắt em xa vắng
rồi mình sẽ quên nhau

Tâm Anh rưng rưng nước mắt, đấy, anh ơi, đang yêu nhau mà anh cứ nghĩ đến chuyện cách chia, giờ ta xa nhau thật rồi, xa nhau vĩnh viễn, em giờ đây như rừng thu. Anh đang yên nằm ở đâu, sao người ta không đem anh về cho em? Tâm Anh vẫn buốt lòng mỗi khi nghĩ tới Chương.

oOo

Một số các vị tướng lãnh quân đội VNCH tham dự Ngày Quân Lực 2012. 

Thiếu Sinh Quân, Biệt Đoàn Văn Nghệ Lam Sơn, Thanh Niên Cờ Vàng Bắc Cali.

Chương ở trên một căn gác nhỏ, có Đầy lo cho mọi chuyện, thời gian đầu khi còn phải tới lui bệnh viện cho các Bác sĩ tái tạo lại khuôn mặt, Đầy vẫn lái xe chở Chương trên cái xe jeep mà TĐ cung cấp, khuôn mặt chỉ làm đỡ được phần nào trong sự tàn phá của trái pháo, khi soi gương, Chương cũng không nhận ra mình, chiến tranh ghê gớm quá.

Cứ mỗi tối, đúng 10 giờ, Tâm Anh xuất hiện trên sân khấu Tự Do, sau lời giới thiệu, nàng bước ra trong chiếc áo dài lộng lẫy, Tâm Anh cúi chào khán giả, mái tóc ngang vai xõa xuống che khuôn mặt u buồn, nàng hất mái tóc ra phía sau, giọng hát cất lên, nàng hát như gửi hồn vào một thời nào đó, có lúc nức nở như gửi tiếc thương cho một ai ở nơi xa xôi.

Xong bài hát, người bồi mang lại mảnh giấy nhỏ đưa cho Tâm Anh, nàng liếc nhanh: ”Người đi qua đời tôi, cám ơn.” Quái lạ, mấy tuần nay, cứ đúng thứ bẩy, nàng lại nhận được mảnh giấy yêu cầu bài hát Người đi qua đời tôi, chắc vẫn là người khách này. Tiếng hát cất lên: “Người đi qua đời tôi, trong những chiều đông sầu…” Giọng Tâm Anh như nức nở “Anh đi qua đời em, có nhớ gì không anh?…”

Hết phần trình diễn của mình, Tâm Anh ra về, nàng ngập ngừng trước cửa: vị khách kia chắc có một tâm sự buồn lắm, cùng tâm trạng như mình. Nàng đưa tay nhìn đồng hồ, để hôm nào mình phải gặp vị khách đó để thăm hỏi xem sao.
Một lúc sau, một chiếc xe jeep chạy tới, đậu gần nơi cửa, Đầy xuống xe bước vào phòng trà. Cũng sắp hết giờ, anh tiến lại phía chiếc cột khuất trong bóng tối, nghiêng xuống nói với một người ngồi ở đấy: “Trung Úy để em đỡ ra xe”. Chương chống tay xuống bàn, đứng dậy. Đầy dìu ông thầy ra xe, gió đêm thổi làm Chương thấy bớt ngột ngạt.

oOo

 Sáu tháng sau, Tâm Anh lấy chồng, cũng một người trong Quân đội. Trong căn gác nhỏ, Chương nghĩ thôi thế cũng xong, mình đã chẳng từng cầu mong Tâm Anh được hạnh phúc hay sao, ngày rồi cũng lụi tàn, mình coi như đã chết trong Tâm Anh và nàng coi như đã xa khỏi đời mình. Chương bật cười – như cái chân nó cũng xa khỏi đời mình. Chương nhớ đồng đội khôn tả, nhớ những lúc băng mình trong lửa đạn, nhớ tiếng reo hò xung phong chiếm mục tiêu.

Rồi tình hình chiến sự trong những ngày kế tiếp hết sức khẩn trương, Ban mê Thuột có thể thất thủ, Chương theo dõi báo chí và tin tức trên đài phát thanh. Đầy chạy đi chạy về hậu cứ Tiểu Đoàn cho Chương biết TĐ hiện đang ở đâu, làm gì. Tình hình càng ngày càng xấu đi, Lữ Đoàn đang chống giữ tại Khánh Dương, rồi đang đánh nhau ở Long Khánh… Chương giật mình, Long Khánh à, vậy là gần quá rồi, sao mà lại nhanh như vậy, mới đây thôi, mình còn làm cho chúng tan hoang ở Thường Đức mà.

29 tháng Tư, Đầy chạy vội lên căn gác:

– Ông thầy, Tiểu Đoàn mình đang giữ cầu xa lộ, VC với xe tăng đang tiến từ Biên Hòa xuống, chắc sẽ đụng lớn ở đây.

Chương nhỏm dậy, với tay lấy bộ quần áo hoa dù mặc vào người, dắt theo khẩu colt hấp tấp hỏi Đầy:

– Có đúng Tiểu đoàn đang ở cầu xa lộ không?
– Đúng ông thầy, em mới gặp thằng Tư Đen nó nói vậy.
– Chú lái xe đưa tôi ra đó ngay, đi, nhanh lên.

Chiếc xe Đầy lái chạy như bay qua ngã ba Hàng Xanh, quẹo theo hướng xa lộ, dọc đường, Chương thấy dân chúng nhốn nháo, có người sách cả đồ đạc như chạy loạn, chiếc xe chạy tới giữa cầu thì ngừng lại, lính Dù bố trí dọc theo hai bên thành cầu, có pháo rớt chung quanh. Chương chống nạng tới chỗ có mấy cái cần ăng ten, Trung Tá TĐT Tiểu đoàn Dù mà Chương phục vụ trước đây đang nói chuyện trên máy. Chương bước tới đứng nghiêm chào vị TĐT, người cách đây mấy tháng đã cùng anh xông pha trong lửa đạn ở Thường Đức.

– Trời ơi Chương, cậu tới đây làm gì, lui xuống dưới kia, tụi nó sắp tới, có cả tăng nữa, lui xuống.
– Không đích thân, đích thân cho tôi được chiến đấu với anh em lần cuối, Nhẩy Dù cố gắng mà đích thân.

Vị Tiểu Đoàn Trưởng Dù nhìn Chương trừng trừng, môi ông run run, một người vào sinh ra tử cả bao nhiêu trận, bỗng dưng thấy lòng chùng xuống, ông chào Chương, một thượng cấp chào thuộc cấp, chưa bao giờ Chương gặp trường hợp như vậy…

Chàng lọc cọc chống nạng bước đi, cúi nhặt khẩu M16 của ai vứt cạnh đó cùng sợi dây ba chạc. Có tiếng Đầy:

– Ông thầy chờ em, em đi cùng với ông thầy.

Hai thầy trò xách 2 cây súng, ngồi dựa vào thành cầu, những người lính Dù đang nhắm súng vào hướng địch, có tiếng súng nổ từ hướng bên kia đầu cầu, tiếng đạn AK mà cả hai đã từng nghe quen, Chương lẩm bẩm: bài hát sao mà đúng thế, tai nghe quen đạn thù, chàng cao giọng:

– Nhẩy Dù cố gắng nghe Đầy.
– Dạ, Nhẩy Dù cố gắng ông thầy.

Tiểu Đoàn Dù đã thiết lập được hai lô cốt tạm ở đầu cầu hướng về phía nhà máy xi măng Hà Tiên, bộ binh địch bắt đầu xông lên nhưng chạm phải Dù bắn trả, chúng lùi lại rồi xốc tới, một lần rồi hai lần, chúng bị chặn lại. Chưa bao giờ đánh nhau mà không được một sự yểm trợ nào cả như lần này, từ pháo binh tới phi cơ, Chương và Đầy nhắm vào toán VC gần chân cầu, lâu rồi Chương mới cầm khẩu M16 mà bắn như vậy, không còn lệnh lạc, không còn chỉ huy, chỉ còn nhắm quân thù mà bắn.

Buổi tối, địch thôi tấn công, đêm yên lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng pháo kích hướng Tân sơn Nhất và những tràng đạn nổ ở đâu xa nghe như pháo tết. Đầy kiếm được bịch gạo sấy và hộp thịt ba lát, Chương không ăn, hai thầy trò nằm cạnh nhau, trời trong và đẹp, những vì sao trên cao không sáng bằng sao ở Thường Đức. Đầy kể cho Chương nghe về những người người lính trong Đại Đội đã hy sinh ở đấy, về những người bạn ĐĐT và Trung đội Trưởng đã nằm xuống, Chương nhớ vô cùng những người lính trong ĐĐ trước đây, mỗi lần nói chuyện với họ, Chương luôn thấy ấm áp và một sự khoan khoái trong lòng, những người mà mới chuyện trò với họ hôm qua, hôm nay đã hy sinh, chịu đựng gian khổ và hiểm nguy, để được gì ngoài tình yêu quê hương.

Đêm mấy tháng trước ở đó đâu có yên lặng như thế này, mà chắc cũng không yên được lâu đâu, chúng đang chuẩn bị đấy, khi chúng im lặng là chúng đang chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo. Không biết cả hai thiếp đi được bao lâu, có tiếng súng nổ ran từ phía đầu cầu. Trời mờ sáng, địch bắt đầu tấn công. Chương và Đầy gom mấy dây đạn lại. Chúng xuất hiện ngay dưới chân cầu, những người lính Dù chuyển đổi vị trí ẩn nấp. Có tiếng ì ì từ xa, xe tăng địch tới. Chẳng còn gì ở đây cả, chỉ còn ít cây M72, mấy ngày nay, Dù vừa di tản vừa phải chiến đấu, đạn dược, lương thực đã cạn, chưa được tiếp tế. Hai chiếc xe tăng địch đi đầu khai hỏa, địa thế trống trải, chúng bắn dọc theo cầu, pháo tăng nổ cấp tập trên mặt cầu, quân Dù rút dần về phía đầu bên này, một viên đạn pháo xe tăng nổ ngay chỗ Đầy nằm cách Chương mấy thước, Chương bò tới, Đầy bị trái pháo nát bấy người, nhìn thấy Chương, anh chỉ kịp thều thào “Trung Úy…” rồi ra đi. Chương nắm tay Đầy, vuốt mắt cho người lính thương yêu, người đã sống chết với anh bao lâu nay nơi chiến trường và săn sóc Chương trong những ngày đau đớn. Chiến tranh chưa ngưng, còn tàn hại tới giây phút cuối cùng, chàng nắm cây M16 nghiến răng bắn một loạt về phía mấy tên VC đi đầu. Tiếng tăng mỗi lúc mỗi gần, Chương tuyệt vọng, mấy tháng trước mình đã không chết ở Thường Đức, giờ mình chết ở đây, cũng không sao, Chương rút khẩu colt, lên đạn. Tiếng xe tăng nghe càng rõ dần, nhìn Đầy nằm bên cạnh, anh thì thầm: “Thầy trò mình có nhau, Đầy a!ỉ”. Một tiếng vang lên, không phải Chương đang lao xuống từ ngọn đồi 1062, anh đang lao xuống một vực sâu, sâu lắm.

Trưa 30 tháng Tư, sau khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, dân chúng xuôi ngược trên cầu xa lộ nhìn thấy xác hai người lính Nhẩy Dù, trong đó có một người cụt mất một chân và tay họ nắm chặt lấy nhau.

Hoạt Cảnh

Võ Việt Nam (Vovinam)

Tài Quan Đô (Taekwondo), võ đường Hùng Vương.

VIẾT THÊM CHO LỜI KẾT

– Trận Thường Đức có thể nói là trận đánh lớn nhất của SĐ Nhẩy Dù, hơn 3 tháng quần thảo với hai SĐ cộng quân là SĐ 304 và 324, thêm nhiều Trung đoàn tăng cuờng cùng các Trung đoàn pháo, Cộng quân rút khỏi Thường Đức, ngọn đồi 1062 trước xanh tươi, giờ trơ trụi cây cối, được chiếm đi chiếm lại nhiều lần của hai bên, số thiệt hại như sau :
– Sư Đoàn Dù có 2 Lữ Đoàn 1 và 3 tham dự với 7 TĐ thay phiên nhau xa luân chiến, 500 tử thương , khoảng hơn 2000 bị thương, số tổn thất bằng 50% quân số.
– Cộng quân, ba Trung đoàn 24, 26, 66 coi như xóa sổ, hơn 2000 bị chết, 5000 bị thương.

Trong số những người hy sinh của SĐ Dù, có nhiều ĐĐT và Trung đội trưởng, Đại Úy Ngụy văn Đàng, một ĐĐT của TĐ 3 Dù đã phải gọi pháo binh và phi cơ dội ngay trên đầu mình vì địch quá đông, tràn ngập điên cuồng trong chiến thuật biển người. Khi tìm được xác anh, ĐU Đàng chết trong thế ngồi, mắt mở trừng trừng, người đầy vết đạn, anh chết mà chúng vẫn tiếp tục bắn vào anh. Người bạn thân cùng khóa 25 Võ Bị với Chương là Đại Úy Võ Thiện Thư, Đại Đội trưởng ĐĐ34 cùng Trung Úy Tô văn Nhị khóa 26 lên tiếp cứu cho Đàng cũng đã chiến đấu dũng mãnh. Địch xử dụng 1 Trung đoàn, cuồn cuộn biển người, cuối cùng, cũng như Đàng, Thư đã gọi pháo binh bắn ngay lên đầu khi bị địch tràn ngập, cả hai hy sinh. Khóa 26 VB về Nhẩy Dù 10 Sĩ Quan thì nội trong trận Thường Đức cũng đã hy sinh 5 người. Các Sĩ quan tốt nghiệp Trường Võ Bị Đà Lạt phải trải qua một hành trình 12 năm ở Tiểu học và Trung học, 4 năm tại Trường Võ Bị, tổng cộng 16 năm, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy, những người sẽ là rường cột của Quân Đội sau này, nhưng chỉ cần một viên đạn, ngay trận đánh đầu tiên, đã hy sinh, có uổng phí không? Không, người Sĩ Quan Hiện dịch là như vậy, cần được tôi luyện trong khói lửa.

Hơn 5 tháng sau trận đánh tàn khốc này, miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Một sự thật đau lòng bởi sự phản bội của người Mỹ, cả một Quân đội hùng mạnh bị trói chân, trói tay trong cuộc chiến tuyệt vọng. Ở Thường Đức, Nhẩy Dù đã anh hùng chiến đấu giữ vững được bờ cõi, những năm tháng trước đó, ở Quảng Trị, Bình Long, Kontum, Qưân lực VNCH đã chiến đấu dũng cảm, rồi bao trận đánh oai hùng năm xưa. Khi người Mỹ đã xong công việc, họ gọi là cuộc rút quân trong danh dự, thật ra đây là cuộc rút quân nhục nhã, cuộc rút quân phản bội, chỉ tội nghiệp, ta đã hy sinh uổng phí, mấy trăm ngàn người chết để đổi lấy một kết cuộc bi thảm.

Bây giờ bỗng dưng nổi lên có những người mà năm xưa khi khói lửa chiến tranh, họ còn nhỏ, chưa phải cầm cây súng, chưa biết thế nào là chết chóc, chưa có cảm giác khi đồng đội ngã xuống bởi đạn thù, tóm lại, họ chẳng phải hy sinh gì hết, giờ họ lớn tiếng hỏi các Tướng lãnh (Quân Đội) đã xin lỗi nhân dân chưa? Câu hỏi thật lạ, chính họ phải xin lỗi những người đã nằm xuống vì đất nước, vì sự an toàn cho họ, họ phải xin lỗi vì sự nhởn nhơ ngoài vòng chiến mà bao người khác đã chết thay cho họ, những Don Quichotte thời đại cầm kiếm múa may, họ nghĩ rằng Quân Đội phải chịu trách nhiệm trong việc miền Nam bị mất mà họ thì không chăng?

Một Don Quichotte khác lớn tiếng thóa mạ các Tướng Lãnh hèn nhát, làm mất nước, lạ một điều, những người này chưa hề cầm súng chống lại quân thù trong cuộc chiến vừa qua, những người này khi đất nước chìm trong lửa đạn, họ vắt mũi chưa sạch, nhưng giờ họ làm như thể nếu họ chỉ huy thì ta sẽ không thua. Các Tướng có hèn nhát không? Tướng Nguyễn viết Thanh, Tướng Đỗ cao Trí, Trương quang Ân đã hy sinh tại mặt trận, 5 vị Tướng đã tuẫn tiết không đầu hàng giặc, còn bao nhiêu Sĩ Quan khác nữa mà họ là những anh hùng trong bóng tối, họ có hèn không?

Chương, cho đến khi dành viên đạn cuối cùng cho mình, nằm xuống mà vẫn không hiểu tại sao miền Nam lại mất, bao nhiêu bạn bè, đồng đội anh cũng đã nằm xuống mà không biết mình bị phản bội, giá biết được, liệu họ có liều hy sinh cho một điều vô lý như thế? Họ là những người lính, mà người lính lúc nào cũng nghĩ tới nhiệm vụ và thi hành lệnh. Xin kính chào những người lính Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã nằm xuống cho quê hương.

Trần Như Xuyên

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

Phố Núi Pleiku.org


Viên Đạn Cuối Cùng – Trần Như Xuyên

Anh cứ sợ rồi mình sẽ quên nhau
như con đường nơi đó
như ngày nao trên thềm phố chợ
sáng Chủ Nhật
em chờ anh
vẫn trên cao là những nhánh thông xanh
và dưới thấp là mặt hồ yên lặng
có phải mùa Thu làm mắt em xa vắng
rồi mình sẽ quên nhau…

 ***

Bài đọc suy gẫm: Nhân kỷ niệm ngày 19/6, ngày Kỷ Niệm Thành Lập Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Blog 16 xin hân hạnh chuyển tải  bài viết “Viên Đạn Cuối Cùng” của tác giả Trần Như Xuyên.  Đây là câu chuyện về sự can ảm, anh dũng, hào hùng trong chiến trận và sự hy sinh cao cả đầy lãng mạn của người lính Cộng Hòa. Hình ảnh minh họa về Ngày Quân Lực 2012 tại San Jose do Nhiếp Ảnh Gia Lê Trí cung cấp. Nhóm chủ trương Blog 16 xin chân thành cảm ơn.

Viên đạn cuối cùng

Trần Như Xuyên

Tháng 8-1974, một trận đánh lớn xẩy ra tại Thường Đức giữa hai Lữ đoàn Nhẩy Dù của Quân lực VNCH và 3 Sư Đoàn quân Bắc Việt, trận chiến rất khốc liệt, sau 3 tháng quần thảo, số tổn thất của hai bên rất to lớn.
Trận chiến đã trôi qua 37 năm, nhưng những người lính Nhẩy Dù năm xưa vẫn không quên âm vang của trận đánh và những đồng đội đã nằm xuống.
Xin mời đọc câu chuyện của một người Đại Đội Trưởng Nhẩy Dù tham dự trong trận đánh này tại Thường Đức.

*********

Tâm Anh bước những bước nhẹ trên hè đường Tự Do, cơn gió lạnh cuối năm khiến nàng khoanh hai tay lại suýt xoa. Những chiếc lá me khô lăn tròn như điệu nhạc luân vũ dưới chân nàng. Sài gòn năm nay được hưởng một cái lạnh khác thường, gần Noel rồi còn gì. Ngang qua Brodard, nhiều cặp mắt trong đó nhìn nàng, còn anh trong đó nữa đâu? Vậy là anh vĩnh viễn xa em rồi… Phải chi anh đừng mê đời lính, phải chi anh đừng mê súng đạn thì giờ này em đâu có cô đơn như thế này. Tâm Anh nhớ lại, cũng là Broadard này một ngày nào đó, ngày hai người còn quấn quýt bên nhau, khi đang ngồi uống nước, ngắm thiên hạ qua lại, bất chợt Chương nắm tay nàng:
– Em, anh đã suy nghĩ kỹ rồi, anh sẽ nhập ngũ, vào Võ Bị Đà Lạt.

Cái ống hút rời khỏi đôi môi xinh xắn, nàng không ngạc nhiên nhưng có bàng hoàng. Tâm Anh chờ đợi ngày này sẽ đến và bây giờ nó đến, vậy mà vẫn không tránh được. Nàng hiểu tính Chương, thời gian gần đây, Chương luôn than phiền về một cái gì đó, không rõ ràng, có lúc Chương bảo sao chàng thấy thành phố này ngột ngạt quá, chỉ muốn xa khỏi đây, có lúc Chương đứng sững nhìn một người lính phía bên kia đường, lẩm bẩm: ”Vậy mà Trung nó chết cũng được nửa năm rồi” -Trung là một trong ba người bạn thân của chàng, cùng đang học Đại học, rồi cả ba bỏ đi lính. Khi mãn khóa, Trung chọn binh chủng Nhẩy dù, hai người kia chọn bộ binh và đổi đi xa, chỉ có Trung thỉnh thoảng về phép, rủ Chương và nàng đi chơi như ngày xưa, ngày mấy người còn vui chơi với nhau chung một nhóm. Trung đen hơn nhưng rắn rỏi, mỗi lần về, Trung say sưa kể về một trận đánh nào đó mà anh tham dự, nàng bắt gặp ánh mắt Chương rực sáng khi nghe Trung nói chuyện. Thế rồi Trung không còn dịp về nữa để kể chuyện chiến trường cho Chương nghe, anh đã hy sinh trong một trận đánh ở đâu đó, nàng không nghĩ Chương lại nối gót theo mấy người kia sớm tới như thế.
Nàng bất chợt hỏi Chương:

– Anh bỏ đi như vậy, còn tình yêu chúng mình, còn em thì sao?
– Thì tình yêu mình cũng vẫn còn đấy chứ em, biết đâu sự xa cách này chẳng là một thử thách cho đôi ta, nếu mình vẫn giữ vững được, nếu mình vẫn chỉ nghĩ đến nhau thì cuộc hôn nhân mới thực bền vững

Cuối năm 1972, chiến trường đã qua đi những trận đánh lớn, tháng giêng 1973, Hiệp định Paris được ký kết đúng với sự mong đợi của Hoa Kỳ và VC. Về phía Hoa Kỳ, có người bảo nhiệm vụ của họ đã xong, tức chiến lược toàn cầu của họ đã hoàn tất, giờ Mỹ có thể rút hết quân về nước, để hai bên VN giải quyết với nhau, đúng ra phải nói là để miền Bắc giải quyết miền Nam vì Mỹ không giữ lời cam kết là sẽ yểm trợ chính phủ VNCH. Trong khi miền Nam đơn độc chiến đấu thiếu cả về vũ khí lẫn viện trợ kinh tế thì CS Bắc Việt lại được sự yểm trợ to tát của toàn khối CS.

Về phía Bắc Việt, ký kết Hiệp định Paris là cơ hội để họ xâm chiếm miền Nam, khi người Mỹ bắt đầu rút quân thì cũng là lúc CS đem quân ồ ạt vượt qua vĩ tuyến 17, chúng hoàn thành con đường đông Trường Sơn để chuyển quân và vũ khí được nhanh hơn, xe cộ và bộ đội rầm rộ chuyển vào như chỗ không người, trước đây chúng không dám ngang nhiên như vậy vì sợ B52 và quân ta phục kích. Hiệp ước Paris qui định ai ở đâu thì yên đó nhưng với VC, có khi nào ta tin được chúng. Kinh nghiệm cái Tết Mậu thân còn đó. Tuy quân VC gia tăng nỗ lực chuẩn bị cho cuộc chiến nhưng chúng vẫn chưa nắm vững không biết người Mỹ có quay trở lại hay không nếu chúng mở các cuộc tấn công lớn. Qua nhiều cuộc lấn chiếm thăm dò, Mỹ vẫn giữ thái độ im lặng, chúng quyết định mở một cuộc tấn công và nơi chúng lựa chọn cho cuộc thử thách này là Thường Đức, nếu chúng thắng cuộc chiến ở đây, chúng sẽ đưa quân thẳng ra biển, chia cắt miền Nam làm hai và sự sụp đổ của VNCH chỉ đếm từng ngày.

Thường Đức là một quận nhỏ thuộc tỉnh Quảng Nam, được tách ra từ Quận Đức Dục, nằm phía Tây Đà Nẵng trên liên tỉnh lộ 4, cách Quốc lộ 1 khoảng 40 cây số. Đây là một điểm chiến lược quan trọng, coi như tiền đồn của của Đà Nẵng. Thường Đức trước kia là một trại LLĐB Mỹ, xây dựng kiên cố với những hầm ngầm bê tông cốt sắt.


Quân trú phòng tại Thường Đức có 2 ĐĐ Địa phương quân, 14 Trung đội Nghĩa quân, tháng 6, 1974, tin tức tình báo cho biết VC đang chuẩn bị lực lượng có thể tấn công Thường Đức. Tiểu Đoàn 79 BĐQ được tăng cường thêm cho Chi khu này, gọi là Chi khu nhưng nó có tính cách chiến lược hơn là yếu tố kinh tế, dân thì toàn là gia đình của binh sĩ trú đóng tại đây, đất đai khô cằn sỏi đá, ba hướng bao quanh là núi cao dốc đứng, chỉ có hướng Đông để ra QL1 là bằng phẳng.

VC tấn công Thường Đức với SĐ 304 (SĐ Điện Biên), SĐ 324 và nhiều Trung Đoàn tăng cường cùng các đơn vị Pháo và xe tăng. Quân trú phòng chống cự mãnh liệt, TĐ 79 BĐQ chiến đấu dũng cảm, gây thiệt hại to lớn cho quân tấn công; phía trú phòng cũng bị thiệt hại, Trung Tá Quân Trưởng bị thương nặng, Th/T TĐT /79 BĐQ cũng bị thương và gọi pháo bắn ngay trên đầu. Sau gần 10 ngày chống cự, với quân số địch quá đông và các họng pháo ở những ngọn đồi chung quanh bắn trực xạ vào Thường Đức, Quận bị thất thủ.

Lo sợ cho Đà Nẵng, Tướng Trưởng xin Bộ TTM cho SĐ Dù tham chiến, Lữ đoàn 1 gồm 3 TĐ: 1,7 và 9 được không vận từ SG bằng C130 xuống Đại Lộc.
Trung Úy Nguyễn thanh Chương, khóa 25 VB Đà Lạt lúc này là ĐĐT của TĐ 1 Nhẩy Dù tham dự cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức, Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù cũng chuẩn bị vào vùng từ Huế.

Đường vào Thường Đức rất bất lợi cho quân giải tỏa, chỉ có một con đường độc đạo là liên tỉnh lộ 4 từ ngoài Đại Lộc tới Thường Đức mà hai bên đường có nhiều ngọn đồi mà VC đã chiếm, thiết lập công sự phòng thủ kiên cố trong vách đá, trong đó có ngọn đồi 1062, từ đây chúng có thể kiểm soát mọi sự di chuyển trên LTL4. VC đã chiếm ngọn núi này trước khi chúng tấn công Thường Đức vì chúng biết thế nào phía ta cũng đem quân giải cứu Quận lỵ này.

Lữ đoàn 1 dàn quân xuất phát mà ưu tiên phải chiếm được ngọn đồi 1062, họ biết là quân VC đã sẵn sàng đợi họ ở đây. Tiểu Đoàn 1 của Chương được chỉ định chiếm ngọn đồi này, đường tiến quân rất khó khăn vất vả, phải băng qua những khoảng trống mà pháo của chúng đã có tọa độ sẵn, rồi các đồi đá phải vượt qua, bứng những chốt Cộng quân cài chung quanh để cầm chân bước tiến của quân Dù. Khi gần tới được gần 1062, TĐ1 đã bị một số tổn thất nhưng nhiệm vụ trước mắt vẫn là làm sao phải chiếm cho được ngọn đồi này để kiểm soát con đường nằm phía dưới dẫn vào Thường Đức.

TĐ1 dàn quân dưới chân đồi 1062, một cái lưng yên ngựa phải vượt qua trước khi tới sát được dưới chân đồi, địch từ trên cao có lợi thế hơn và hầm hố chúng xây dựng trong hốc đá kiên cố với nhưng cây cổ thụ to được chúng cưa làm nóc hầm. Cả hai Đại Đội Dù được pháo binh yểm trợ xung phong chiếm mục tiêu nhưng gặp sức kháng cự mãnh liệt của địch, cối 120 ly và hỏa tiễn 122 ly được địch bắn xối xả vào vị trí quân Dù. Những mục tiêu tác xạ chúng đã tiên liệu trước và tiền sát của chúng từ những ngọn đồi chung quanh gọi pháo chính xác, suốt một ngày, Dù bị cầm chân. Đại Đội Chương mất một Th/U Trung đội trưởng và 5 binh sĩ cùng khoảng một chục bị thương.

Lệnh từ TĐ cho ĐĐ Chương lùi lại, bố trí tuyến phòng thủ đêm lấy sức cho cuộc tấn công ngày hôm sau. Rạng sáng, ĐĐ Chương, bọc qua hướng khác, nơi có nhiều dốc đá thẳng đứng, hướng này địch có lơ là vì không nghĩ Dù sẽ chọn để tấn công. Pháo ta dồn dập đổ xuống đỉnh đồi, địch co cụm trong hầm hố tránh pháo, lính Dù bám từng hốc đá âm thầm leo lên ,khi gần tới đỉnh đồi, họ đồng loạt khai hỏa xung phong. Dù dùng lựu đạn ném xuống hầm, bị bất ngờ, chúng hốt hoảng bung hầm chạy. ĐĐ Chương chiếm được đồi 1062 nhưng ngay lập tức, địch pháo kích dữ dội với đủ loại pháo từ những ngọn đồi chung quanh. Lính Dù nhờ có hầm hố kiên cố sẵn của bọn chúng, tránh được nhiều thiệt hại. ĐĐ Chương được lệnh bố trí giữ ngọn đồi, sáng hôm sau sẽ có một ĐĐ bạn lên tăng cường nhưng tối đó, Chương không thể giữ được ngọn đồi mà suốt ngày hôm nay đã đổ bao xương máu mới chiếm được. Mới chập tối, địch pháo tàn sát ngọn đồi rồi cho nguyên một Trung đoàn xung phong tái chiếm. Ở tuyến phòng thủ phía Tây, Th/U Thành, một Trung đội trưởng xuất sắc của Chương gọi máy cho biết địch rất đông, đang tràn ngập mục tiêu, Thành xin pháo binh bắn ngay trên đầu. TĐ cho lệnh Chương rút xuống, Chương gọi máy cho lệnh, không có tiếng Thành trả lời, tuyến của Thành bị tràn ngập. Thành bị nguyên một băng AK nát hết người. Khi lính của ĐĐ rút hết, Chương xuống sau cùng, chàng gọi pháo dập xuống đỉnh 1062. Lúc Chương đang lao xuống gần chân đồi, một trái pháo nổ ngay cạnh Chương, không biết của ta hay của địch, Chương thấy tối tăm mặt mũi và rồi không biết gì nữa.

Ngày hôm sau, một ĐĐ khác được lệnh tấn công tái chiếm ngọn đồi, họ gặp Chương nằm trên vũng máu, người lính mang máy và cận vệ của anh nằm chết bên cạnh. Chương bị thương rất nặng, pháo cắt đứt một chân anh, mặt phủ đầy máu, Chương được tải thương ngay lập tức. Suốt mấy ngày ở bệnh viện, Chương ở trong biên giới giữa cái sống và cái chết.

Cuối cùng, người ta đã cứu được Chương thoát lưỡi hái của tử thần nhưng không cứu được cái chân của anh, và khuôn mặt, một mảnh pháo chém sạt một bên má. Khi tỉnh lại, Chương biết mình bị thương nặng lắm, cái đầu cuốn trong băng trắng xóa và đau nhức khủng khiếp. Chương cũng biết mình mất mất một chân. Các Bác Sĩ khi thấy Chương đã đủ khỏe, họ cho anh biết sự thực về khuôn mặt, họ nói sẽ cố gắng đắp vá cho anh nhưng không thể nào có được hình hài như xưa.

TĐ cho một người lính thân cận của Chương ở hẳn Bệnh viện để chăm sóc anh cùng với chiếc xe jeep. Đầy, người Hạ sĩ theo Chương từ ngày Chương gia nhập Nhẩy Dù. Đầy là người lo cho anh từ cái ăn, cái ngủ như người mẹ hiền, giờ vẫn cạnh ông thầy. Khi ông thầy bị thương quá nặng, vẫn chăm sóc anh từng li, từng tí. Chương không cho Đầy báo gì Tâm Anh biết, cho đến một ngày, Chương dặn dò Đầy đến cho Tâm Anh biết tin nhưng là một cái tin Đầy thấy khó khăn để nói.
Gần hai tháng nay, Tâm Anh không nhận được thư từ hay tin tức gì của Chương cả, nàng có nghe về những trận đánh xẩy ra với đơn vị Nhẩy Dù ở đâu đó. Một buổi trưa, một cái xe jeep đỗ xịch trước cửa nhà, nàng thấy Đầy bước xuống, Tâm Anh chạy vội ra:

– Chú Đầy, Trung Úy không về hả, có thư không vậy chú?

Đầy không nói gì cả, anh bước vào trong nhà, tay cầm chiếc mũ béret đỏ xoay xoay trong tay.

Nhìn cử chỉ khác thường của Đầy, Tâm Anh biến sắc, nàng đưa tay lên ngực: gì thế này, có chuyện gì xẩy ra cho Chương rồi sao, đừng nói gì không may nghe chú Đầy, sao mặt chú lại buồn thế kia, đừng, chắc không có gì đâu, có gì nói đi, nói đi chú Đầy.

Sau một chút ngập ngừng, Đầy lên tiếng:

– Xin cô bình tĩnh, mời cô ngồi xuống, Trung Úy Chương đã hy sinh, ở mặt trận Thường Đức, quân địch tràn ngập mục tiêu, chúng tôi không lấy được xác Trung Úy, Trung Úy đã chiến đấu dũng cảm nhưng địch đông quá.

Tâm Anh choáng váng mặt mày, nàng buông rơi mình trên ghế, không còn nghe những gì Đầy đang nói tiếp. Thế đấy anh ơi, sao giản dị quá: Trung Úy đã hy sinh. Câu nói thật đơn giản mà như đất trời sụp đổ, bao nhiêu người đã được nghe những câu đơn giản như thế này, bao nhiêu cõi đời tan nát?

Hạ sĩ Đầy đã hoàn thành nhiệm vụ được Chương trao phó, một nhiệm vụ khác thường trong bao nhiêu việc Chương đã bảo anh làm trước đây. Công việc chút nữa đã không hoàn thành khi Đầy nhìn thấy sự đau khổ tột cùng trên gương mặt Tâm Anh. Nhờ là một người lính tác chiến sắt đá nên đã kềm chế được mình vì anh hiểu những gì ông thầy mình muốn cho quãng đời còn lại của ông ấy và nhất là cho Tâm Anh. Đầy cũng thương ông Trung Úy của mình không kém gì Tâm Anh, có điều hai tình thương khác nhau; với Đầy, Chương là một cấp chỉ huy gương mẫu, can đảm và thương yêu binh sĩ hơn cả tình đồng đội, những ngày ở Bệnh viện, đã bao lần Đầy ngăn nước mắt khi nhìn Chương trong hình hài không còn nguyên vẹn.

Tâm Anh bỏ ngang việc học, nàng không còn tâm trí để nghĩ đến sách vở, nàng đi hát để tìm quên. Nhờ làn hơi thiên phú, chỉ trong thời gian ngắn, tiếng ca nàng vút cao trong nền ca nhạc ở Sài Gòn, nhiều nơi săn đón mời nàng hát cho phòng trà của mình, Tâm Anh chọn chỉ hát độc quyền cho Tự Do, một phòng trà mà lúc còn sống Chương rất thích. Ở đây, nàng như thấy Chương của một ngày mà Hey Jude, don’t let me down, ngày hai người quấn quýt bên nhau với tiếng hát của Billy Shane, của Strawberry Four. Nàng cũng thuộc lòng câu thơ Chương làm cho nàng trong một lần lên Đà Lạt thăm Chương về:

Anh cứ sợ rồi mình sẽ quên nhau
như con đường nơi đó
như ngày nao trên thềm phố chợ
sáng Chủ Nhật
em chờ anh
vẫn trên cao là những nhánh thông xanh
và dưới thấp là mặt hồ yên lặng
có phải mùa Thu làm mắt em xa vắng
rồi mình sẽ quên nhau

Tâm Anh rưng rưng nước mắt, đấy, anh ơi, đang yêu nhau mà anh cứ nghĩ đến chuyện cách chia, giờ ta xa nhau thật rồi, xa nhau vĩnh viễn, em giờ đây như rừng thu. Anh đang yên nằm ở đâu, sao người ta không đem anh về cho em? Tâm Anh vẫn buốt lòng mỗi khi nghĩ tới Chương.

oOo

Một số các vị tướng lãnh quân đội VNCH tham dự Ngày Quân Lực 2012. 

Thiếu Sinh Quân

Biệt Đoàn Văn Nghệ Lam Sơn.

Thanh Niên Cờ Vàng Bắc Cali.

 
Chương ở trên một căn gác nhỏ, có Đầy lo cho mọi chuyện, thời gian đầu khi còn phải tới lui bệnh viện cho các Bác sĩ tái tạo lại khuôn mặt, Đầy vẫn lái xe chở Chương trên cái xe jeep mà TĐ cung cấp, khuôn mặt chỉ làm đỡ được phần nào trong sự tàn phá của trái pháo, khi soi gương, Chương cũng không nhận ra mình, chiến tranh ghê gớm quá.

Cứ mỗi tối, đúng 10 giờ, Tâm Anh xuất hiện trên sân khấu Tự Do, sau lời giới thiệu, nàng bước ra trong chiếc áo dài lộng lẫy, Tâm Anh cúi chào khán giả, mái tóc ngang vai xõa xuống che khuôn mặt u buồn, nàng hất mái tóc ra phía sau, giọng hát cất lên, nàng hát như gửi hồn vào một thời nào đó, có lúc nức nở như gửi tiếc thương cho một ai ở nơi xa xôi.

Xong bài hát, người bồi mang lại mảnh giấy nhỏ đưa cho Tâm Anh, nàng liếc nhanh: ”Người đi qua đời tôi, cám ơn.” Quái lạ, mấy tuần nay, cứ đúng thứ bẩy, nàng lại nhận được mảnh giấy yêu cầu bài hát Người đi qua đời tôi, chắc vẫn là người khách này. Tiếng hát cất lên: “Người đi qua đời tôi, trong những chiều đông sầu…” Giọng Tâm Anh như nức nở “Anh đi qua đời em, có nhớ gì không anh?…”

Hết phần trình diễn của mình, Tâm Anh ra về, nàng ngập ngừng trước cửa: vị khách kia chắc có một tâm sự buồn lắm, cùng tâm trạng như mình. Nàng đưa tay nhìn đồng hồ, để hôm nào mình phải gặp vị khách đó để thăm hỏi xem sao.
Một lúc sau, một chiếc xe jeep chạy tới, đậu gần nơi cửa, Đầy xuống xe bước vào phòng trà. Cũng sắp hết giờ, anh tiến lại phía chiếc cột khuất trong bóng tối, nghiêng xuống nói với một người ngồi ở đấy: “Trung Úy để em đỡ ra xe”. Chương chống tay xuống bàn, đứng dậy. Đầy dìu ông thầy ra xe, gió đêm thổi làm Chương thấy bớt ngột ngạt.

oOo

Sáu tháng sau, Tâm Anh lấy chồng, cũng một người trong Quân đội. Trong căn gác nhỏ, Chương nghĩ thôi thế cũng xong, mình đã chẳng từng cầu mong Tâm Anh được hạnh phúc hay sao, ngày rồi cũng lụi tàn, mình coi như đã chết trong Tâm Anh và nàng coi như đã xa khỏi đời mình. Chương bật cười – như cái chân nó cũng xa khỏi đời mình. Chương nhớ đồng đội khôn tả, nhớ những lúc băng mình trong lửa đạn, nhớ tiếng reo hò xung phong chiếm mục tiêu.

Rồi tình hình chiến sự trong những ngày kế tiếp hết sức khẩn trương, Ban mê Thuột có thể thất thủ, Chương theo dõi báo chí và tin tức trên đài phát thanh. Đầy chạy đi chạy về hậu cứ Tiểu Đoàn cho Chương biết TĐ hiện đang ở đâu, làm gì. Tình hình càng ngày càng xấu đi, Lữ Đoàn đang chống giữ tại Khánh Dương, rồi đang đánh nhau ở Long Khánh… Chương giật mình, Long Khánh à, vậy là gần quá rồi, sao mà lại nhanh như vậy, mới đây thôi, mình còn làm cho chúng tan hoang ở Thường Đức mà.

29 tháng Tư, Đầy chạy vội lên căn gác:

– Ông thầy, Tiểu Đoàn mình đang giữ cầu xa lộ, VC với xe tăng đang tiến từ Biên Hòa xuống, chắc sẽ đụng lớn ở đây.

Chương nhỏm dậy, với tay lấy bộ quần áo hoa dù mặc vào người, dắt theo khẩu colt hấp tấp hỏi Đầy:

– Có đúng Tiểu đoàn đang ở cầu xa lộ không?
– Đúng ông thầy, em mới gặp thằng Tư Đen nó nói vậy.
– Chú lái xe đưa tôi ra đó ngay, đi, nhanh lên.

Chiếc xe Đầy lái chạy như bay qua ngã ba Hàng Xanh, quẹo theo hướng xa lộ, dọc đường, Chương thấy dân chúng nhốn nháo, có người sách cả đồ đạc như chạy loạn, chiếc xe chạy tới giữa cầu thì ngừng lại, lính Dù bố trí dọc theo hai bên thành cầu, có pháo rớt chung quanh. Chương chống nạng tới chỗ có mấy cái cần ăng ten, Trung Tá TĐT Tiểu đoàn Dù mà Chương phục vụ trước đây đang nói chuyện trên máy. Chương bước tới đứng nghiêm chào vị TĐT, người cách đây mấy tháng đã cùng anh xông pha trong lửa đạn ở Thường Đức.

– Trời ơi Chương, cậu tới đây làm gì, lui xuống dưới kia, tụi nó sắp tới, có cả tăng nữa, lui xuống.
– Không đích thân, đích thân cho tôi được chiến đấu với anh em lần cuối, Nhẩy Dù cố gắng mà đích thân.

Vị Tiểu Đoàn Trưởng Dù nhìn Chương trừng trừng, môi ông run run, một người vào sinh ra tử cả bao nhiêu trận, bỗng dưng thấy lòng chùng xuống, ông chào Chương, một thượng cấp chào thuộc cấp, chưa bao giờ Chương gặp trường hợp như vậy…

Chàng lọc cọc chống nạng bước đi, cúi nhặt khẩu M16 của ai vứt cạnh đó cùng sợi dây ba chạc. Có tiếng Đầy:

– Ông thầy chờ em, em đi cùng với ông thầy.

Hai thầy trò xách 2 cây súng, ngồi dựa vào thành cầu, những người lính Dù đang nhắm súng vào hướng địch, có tiếng súng nổ từ hướng bên kia đầu cầu, tiếng đạn AK mà cả hai đã từng nghe quen, Chương lẩm bẩm: bài hát sao mà đúng thế, tai nghe quen đạn thù, chàng cao giọng:

– Nhẩy Dù cố gắng nghe Đầy.
– Dạ, Nhẩy Dù cố gắng ông thầy.

Tiểu Đoàn Dù đã thiết lập được hai lô cốt tạm ở đầu cầu hướng về phía nhà máy xi măng Hà Tiên, bộ binh địch bắt đầu xông lên nhưng chạm phải Dù bắn trả, chúng lùi lại rồi xốc tới, một lần rồi hai lần, chúng bị chặn lại. Chưa bao giờ đánh nhau mà không được một sự yểm trợ nào cả như lần này, từ pháo binh tới phi cơ, Chương và Đầy nhắm vào toán VC gần chân cầu, lâu rồi Chương mới cầm khẩu M16 mà bắn như vậy, không còn lệnh lạc, không còn chỉ huy, chỉ còn nhắm quân thù mà bắn.

Buổi tối, địch thôi tấn công, đêm yên lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng pháo kích hướng Tân sơn Nhất và những tràng đạn nổ ở đâu xa nghe như pháo tết. Đầy kiếm được bịch gạo sấy và hộp thịt ba lát, Chương không ăn, hai thầy trò nằm cạnh nhau, trời trong và đẹp, những vì sao trên cao không sáng bằng sao ở Thường Đức. Đầy kể cho Chương nghe về những người người lính trong Đại Đội đã hy sinh ở đấy, về những người bạn ĐĐT và Trung đội Trưởng đã nằm xuống, Chương nhớ vô cùng những người lính trong ĐĐ trước đây, mỗi lần nói chuyện với họ, Chương luôn thấy ấm áp và một sự khoan khoái trong lòng, những người mà mới chuyện trò với họ hôm qua, hôm nay đã hy sinh, chịu đựng gian khổ và hiểm nguy, để được gì ngoài tình yêu quê hương.

Đêm mấy tháng trước ở đó đâu có yên lặng như thế này, mà chắc cũng không yên được lâu đâu, chúng đang chuẩn bị đấy, khi chúng im lặng là chúng đang chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo. Không biết cả hai thiếp đi được bao lâu, có tiếng súng nổ ran từ phía đầu cầu. Trời mờ sáng, địch bắt đầu tấn công. Chương và Đầy gom mấy dây đạn lại. Chúng xuất hiện ngay dưới chân cầu, những người lính Dù chuyển đổi vị trí ẩn nấp. Có tiếng ì ì từ xa, xe tăng địch tới. Chẳng còn gì ở đây cả, chỉ còn ít cây M72, mấy ngày nay, Dù vừa di tản vừa phải chiến đấu, đạn dược, lương thực đã cạn, chưa được tiếp tế. Hai chiếc xe tăng địch đi đầu khai hỏa, địa thế trống trải, chúng bắn dọc theo cầu, pháo tăng nổ cấp tập trên mặt cầu, quân Dù rút dần về phía đầu bên này, một viên đạn pháo xe tăng nổ ngay chỗ Đầy nằm cách Chương mấy thước, Chương bò tới, Đầy bị trái pháo nát bấy người, nhìn thấy Chương, anh chỉ kịp thều thào “Trung Úy…” rồi ra đi. Chương nắm tay Đầy, vuốt mắt cho người lính thương yêu, người đã sống chết với anh bao lâu nay nơi chiến trường và săn sóc Chương trong những ngày đau đớn. Chiến tranh chưa ngưng, còn tàn hại tới giây phút cuối cùng, chàng nắm cây M16 nghiến răng bắn một loạt về phía mấy tên VC đi đầu. Tiếng tăng mỗi lúc mỗi gần, Chương tuyệt vọng, mấy tháng trước mình đã không chết ở Thường Đức, giờ mình chết ở đây, cũng không sao, Chương rút khẩu colt, lên đạn. Tiếng xe tăng nghe càng rõ dần, nhìn Đầy nằm bên cạnh, anh thì thầm: “Thầy trò mình có nhau, Đầy a!ỉ”. Một tiếng vang lên, không phải Chương đang lao xuống từ ngọn đồi 1062, anh đang lao xuống một vực sâu, sâu lắm.

Trưa 30 tháng Tư, sau khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, dân chúng xuôi ngược trên cầu xa lộ nhìn thấy xác hai người lính Nhẩy Dù, trong đó có một người cụt mất một chân và tay họ nắm chặt lấy nhau.

Hoạt Cảnh

Võ Việt Nam (Vovinam)

Tài Quan Đô (Taekwondo), võ đường Hùng Vương.

VIẾT THÊM CHO LỜI KẾT

– Trận Thường Đức có thể nói là trận đánh lớn nhất của SĐ Nhẩy Dù, hơn 3 tháng quần thảo với hai SĐ cộng quân là SĐ 304 và 324, thêm nhiều Trung đoàn tăng cuờng cùng các Trung đoàn pháo, Cộng quân rút khỏi Thường Đức, ngọn đồi 1062 trước xanh tươi, giờ trơ trụi cây cối, được chiếm đi chiếm lại nhiều lần của hai bên, số thiệt hại như sau :
– Sư Đoàn Dù có 2 Lữ Đoàn 1 và 3 tham dự với 7 TĐ thay phiên nhau xa luân chiến, 500 tử thương , khoảng hơn 2000 bị thương, số tổn thất bằng 50% quân số.
– Cộng quân, ba Trung đoàn 24, 26, 66 coi như xóa sổ, hơn 2000 bị chết, 5000 bị thương.

Trong số những người hy sinh của SĐ Dù, có nhiều ĐĐT và Trung đội trưởng, Đại Úy Ngụy văn Đàng, một ĐĐT của TĐ 3 Dù đã phải gọi pháo binh và phi cơ dội ngay trên đầu mình vì địch quá đông, tràn ngập điên cuồng trong chiến thuật biển người. Khi tìm được xác anh, ĐU Đàng chết trong thế ngồi, mắt mở trừng trừng, người đầy vết đạn, anh chết mà chúng vẫn tiếp tục bắn vào anh. Người bạn thân cùng khóa 25 Võ Bị với Chương là Đại Úy Võ Thiện Thư, Đại Đội trưởng ĐĐ34 cùng Trung Úy Tô văn Nhị khóa 26 lên tiếp cứu cho Đàng cũng đã chiến đấu dũng mãnh. Địch xử dụng 1 Trung đoàn, cuồn cuộn biển người, cuối cùng, cũng như Đàng, Thư đã gọi pháo binh bắn ngay lên đầu khi bị địch tràn ngập, cả hai hy sinh. Khóa 26 VB về Nhẩy Dù 10 Sĩ Quan thì nội trong trận Thường Đức cũng đã hy sinh 5 người. Các Sĩ quan tốt nghiệp Trường Võ Bị Đà Lạt phải trải qua một hành trình 12 năm ở Tiểu học và Trung học, 4 năm tại Trường Võ Bị, tổng cộng 16 năm, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy, những người sẽ là rường cột của Quân Đội sau này, nhưng chỉ cần một viên đạn, ngay trận đánh đầu tiên, đã hy sinh, có uổng phí không? Không, người Sĩ Quan Hiện dịch là như vậy, cần được tôi luyện trong khói lửa.

Hơn 5 tháng sau trận đánh tàn khốc này, miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Một sự thật đau lòng bởi sự phản bội của người Mỹ, cả một Quân đội hùng mạnh bị trói chân, trói tay trong cuộc chiến tuyệt vọng. Ở Thường Đức, Nhẩy Dù đã anh hùng chiến đấu giữ vững được bờ cõi, những năm tháng trước đó, ở Quảng Trị, Bình Long, Kontum, Qưân lực VNCH đã chiến đấu dũng cảm, rồi bao trận đánh oai hùng năm xưa. Khi người Mỹ đã xong công việc, họ gọi là cuộc rút quân trong danh dự, thật ra đây là cuộc rút quân nhục nhã, cuộc rút quân phản bội, chỉ tội nghiệp, ta đã hy sinh uổng phí, mấy trăm ngàn người chết để đổi lấy một kết cuộc bi thảm.

Bây giờ bỗng dưng nổi lên có những người mà năm xưa khi khói lửa chiến tranh, họ còn nhỏ, chưa phải cầm cây súng, chưa biết thế nào là chết chóc, chưa có cảm giác khi đồng đội ngã xuống bởi đạn thù, tóm lại, họ chẳng phải hy sinh gì hết, giờ họ lớn tiếng hỏi các Tướng lãnh (Quân Đội) đã xin lỗi nhân dân chưa? Câu hỏi thật lạ, chính họ phải xin lỗi những người đã nằm xuống vì đất nước, vì sự an toàn cho họ, họ phải xin lỗi vì sự nhởn nhơ ngoài vòng chiến mà bao người khác đã chết thay cho họ, những Don Quichotte thời đại cầm kiếm múa may, họ nghĩ rằng Quân Đội phải chịu trách nhiệm trong việc miền Nam bị mất mà họ thì không chăng?

Một Don Quichotte khác lớn tiếng thóa mạ các Tướng Lãnh hèn nhát, làm mất nước, lạ một điều, những người này chưa hề cầm súng chống lại quân thù trong cuộc chiến vừa qua, những người này khi đất nước chìm trong lửa đạn, họ vắt mũi chưa sạch, nhưng giờ họ làm như thể nếu họ chỉ huy thì ta sẽ không thua. Các Tướng có hèn nhát không? Tướng Nguyễn viết Thanh, Tướng Đỗ cao Trí, Trương quang Ân đã hy sinh tại mặt trận, 5 vị Tướng đã tuẫn tiết không đầu hàng giặc, còn bao nhiêu Sĩ Quan khác nữa mà họ là những anh hùng trong bóng tối, họ có hèn không?

Chương, cho đến khi dành viên đạn cuối cùng cho mình, nằm xuống mà vẫn không hiểu tại sao miền Nam lại mất, bao nhiêu bạn bè, đồng đội anh cũng đã nằm xuống mà không biết mình bị phản bội, giá biết được, liệu họ có liều hy sinh cho một điều vô lý như thế? Họ là những người lính, mà người lính lúc nào cũng nghĩ tới nhiệm vụ và thi hành lệnh. Xin kính chào những người lính Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã nằm xuống cho quê hương.

Trần Như Xuyên

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

Phố Núi Pleiku.org

Trí Lê vietexpressnews (hình ảnh)


Dòng Sử Việt Sẽ Không Ngừng – Chu Chi Nam

Nguoilinhsau36nam.jpg picture by nhacyeuem
Hình vẽ Hộ Tống Hạm Nhật Tảo trong trận hải chiến với Trung Cộng để bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhân dịp Hội Ái Hữu Hải Quân tổ chức Lễ Tưởng Niệm các Anh hùng, Liệt sĩ đã hy sinh trong trận đánh Hoàng Sa năm 1974 tại Nam California, Hoa Kỳ.
***

Bài đọc suy gẫm: Dòng Sử Việt Sẽ Không Ngừng tức “Quyết Đấu Tranh Để Cứu Quốc và tồn Chủng!” của tác giả Chu Chi Nam. 

Hình ảnh minh họa:  Nhân kỷ niệm 1 năm, ngày mồng 5 tháng 6.   Ngày con dân Việt Nam xuống đường biểu tình chống bành trướmng, bá quyền Trung Quốc .  Blog 16 xin trích đăng lại những hình ảnh chọn lọc từ các cuộc biểu tình trong năm 2011. Cũng trong năm này, đảng cộng sản lộ rõ mặt thái thú, tay sai cho Bắc Kinh khi đàn áp những người biểu tình vì yêu nước.

 Sài GònMột số viên chức cũ mới của nhà nước việt cộng cũng hăng say tham gia biểu tình. Người đứng bên góc phải (áo trắng) là Huỳnh Tấn Mẫm, sinh viên thiên tả, cựu chuyên viên biểu tình chống chánh phủ VNCH trước 1975.
 

 Trong ngày biểu tình 5/6/2011 tại Sài Gòn.  Một thanh niên có lẽ tên là Tuấn, mặc áo thung có in chữ” No China” bằng cách nào đó đã vượt qua được hàng rào ngựa sắt của công an, vào tận bên trong, đối diện với toà lãnh sự quán tàu cộng.  Anh đứng yên lặng, đầu hơi cúi xuống, hai tay giơ cao biểu ngữ phản đối Trung quốc xâm phạm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam. .. cứ đứng im như vậy từ sáng cho tới chiều. Link


251678_229099807102165_100000064413286_997395_7601415_n.jpg

 
Tôi đã thấy trong tim anh rực lửa
Lửa tiên rồng thời Quốc Toản ra quân
Lửa hiên ngang bất khuất, đốt hung thần
Quân bán Nước: quên cội nguồn Dân tộc…
Huyen Thoai

Cô giáo (hình trên)  và nghệ sĩ yêu nước (hình dưới – Ca sĩ Khánh Linh ) tham gia biểu tình.  
 

  
   Cô Trịnh Kim Tiến, có người cha thân yêu bị công an Hà Nội đánh chết rất oan ức cũng tham gia biểu tình.



 

  259678_10150207812588181_718643180_7283637_118027_o.jpg
Cháu bé nhìn chú công an hỏi:” chú ơi, chú có yêu nước không?” Các chú cúi gầm mặt xuống.

                    QUYẾT ĐẤU TRANH ĐỂ CỨU QUỐC VÀ TỒN CHỦNG – Chu chi Nam

          Ngày mồng 5 tháng 6, ngày kỷ niệm một năm dân Việt xuống đường chống Trung cộng bành trướng, mỗi người Việt chúng ta, từ quốc nội tới hải ngoại, hãy tự nhủ :
                                       Quyết đấu tranh để cứu quốc và tồn chủng !

Kể từ ngày vua Hùng dựng nước tới nay, đã gần 5,000 năm, trong đó có 1,000 năm Bắc thuộc và 100 năm Pháp thuộc, dân tộc Việt đã kiên cường vừa chống ngoại xâm vừa dựng quốc và kiến quốc.

Giang sơn gấm vóc từ ải Nam quan tới mũi Cà mâu, mà chúng ta có được ngày hôm nay, là chính nhờ tiền nhân chúng ta đã đổ biết bao xương máu, qua bao triều đại mới có được.

Nhưng giận thay bọn cộng sản, bắt đầu từ Hồ chí Minh, lại bán nước, dâng đất nhượng biển cho Trung cộng.

Vào những năm 50, khi sửa đường xe lửa ở biên giới Việt Hoa, Trung cộng đã tự động rời những cột mốc về phía nam, lấn đất Việt Nam; chính báo Nhân Dân của cộng sản thời đó có lên tiếng phản đối; nhưng chỉ là lấy lệ.

Rồi tiếp tục với công hàm của Phạm văn Đồng đề ngày 14/9/1958, trả lời công hàm của Chu ân Lai có đính kèm bản đồ nói là 2 quần đảo Hoàng sa và Trường sa là của Trung Cộng. Chính vì vậy mà Trung cộng đòi chủ quyền về 2 quần đảo này ; mặc dầu theo công pháp quốc tế, theo lịch sử và địa lý, thì 2 quần đảo này là hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam.

Việc dâng đất nhượng biển còn tiếp tục với Lê khả Phiêu, qua 2 Hiệp ước ký với Trung cộng vào năm 1999, dâng gần 1,000km2 vùng biên giới, trong đó có thác Bản Giốc và ải Nam quan; và Hiệp ước năm 2,000 dâng cho Trung cộng cả chục ngàn cây số vuông vùng biển.

Ngày hôm nay, thì Nông đức Mạnh, Nguyễn tấn Dũng cho Trung cộng thuê rừng sát vùng biên giới và cho Trung cộng khai thác bô xít ở cao nguyên Trung phần, xương sống về địa lý chiến lược Việt Nam, dọn đường
 cho Trung cộng đánh chiếm Việt Nam trong tương lai.

Hà Nội – Nhà Hát Lớn

 
Bản Tuyên Cáo quan trọng của những người biểu tình xướng lên trước quốc dân tại Nhà Hát Lớn Hà Nội trước các phóng viên quốc tế và một rừng Trái Tim Yêu Nước.  :” Chúng tôi, những người dân yêu nước Việt Nam quyết tâm làm tất cả, nguyện đem tất cả sức mình để chống lại các hành động xâm lấn hiếu chiến của nhà cầm quyền Trung Quốc, bảo vệ vững chắc chủ quyền đất, biển, đảo của Việt Nam.”  Đây chính ra là việc phải làm của tà quyền cộng sản nhưng chúng hèn nhát không dám làm, ngược lại …

 

Bờ Hồ – Tiếng vĩ cầm vi vút hòa theo nhịp đập yêu nước từ trong tim: ” Nhữ Đẳng Hành Khan Thủ Bại Hư…”

 

 ”Vì sao, vì ai?” biển biểu ngữ nội dung độc đáo này khiến bọn xấu có tịch rất ư là nhột nhạt.
 





 Bởi lẽ đó, những ai chủ trương chống sự bành trướng của phương bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là hoàn toàn sai lầm.

Không những không bảo toàn được sự toàn vẹn lãnh thổ, mà còn mất đất, mất biển thêm.

Xưa kia Kiều công Tiễn, lợi dụng lúc đất nước mới thành lập, phải trái chưa tỏ, kỷ cương chưa vững, lòng người chưa định, tìm cách giết vua bán nước.

Lê chiêu Thống xem ngôi báu của mình hơn quyền lợi quốc gia, dân tộc, nhân lúc Bắc hà nhiễu loạn, đã dẫn quân ngoại bang về giày xéo quê hương.

Ngày nay Đảng Cộng sản chẳng khác chi Kiều công Tiễn, Lê chiêu Thống, đặt quyền lợi đảng đoàn lên trên quyền lợi quốc gia dân tộc, đã qụy lụy Bắc phương, dâng đất nhượng biển cho chúng, để giữ quyền.

Ngày xưa vua Hùng dựng nước. Ngày nay Cộng sản bán nước.

Nhưng dòng lịch sử Việt không ngừng ở đây.

Hành động của những kẻ buôn dân, bán nước, sẽ bị dân Việt kết án và tiêu diệt.
  
Chuyên chỉ xảy ra dưới nhà nước cs. . Yêu nước là trái phép. Bắt hết. Link

Công an phường Tràng Tiền lén lút bắt một người yêu nước đi trong đoàn biểu tình bị đồng bào phát giác.  Mọi người bèn quay trở lại bao vây đồn của bọn xấu, đồng loạt hô to “Thà người, thả người, thả người…”. “Được rồi, đừng la hét nữa, thả ngay, thả ngay, hiểu lầm thôi…”.  Qua chuyện này ta thấy chính nghĩa và lòng yêu nước toát ra sức mạnh làm bọn có những hành vi sai trái hoảng sợ…Link
 

Người thanh niên yêu nước này bị bắt sau khi đã rời đoàn biểu tình chừng 200m.  
“Tôi có tội gì? nếu yêu nước là có tội  thì phải bắt ngay những kẻ bán nước?”
 
  

Theo BBC-Anh Nguyễn Chí Đức bị tên Đại úycông an Minh, mặc thường phục đạp vào mặt khi đang bị bốn công an cầm tay cầm chân.


 
Ngày xưa Ngô quyền, Lý thường Kiệt, Trần hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ đã thay mặt cho uy quyền quốc gia dân tộc, không những trừng trị nghiêm ngặt kẻ nội thù, mà còn dạy những bài học đích đáng cho kẻ ngoại xâm.

Trần hưng Đạo và vua quan nhà Trần đã chứng minh hùng hồn là nếu quân dân đồng lòng thì có thể chiến thắng cả một kẻ thù hung bạo như đế quốc Mông cổ, không những có thể giữ vững nền độc lập, mà cả sự toàn vẹn lãnh thổ.

Hôm nay, ngày mồng 5 tháng 6, kỷ niệm một năm, ngày dân Việt xuống đường chống lại sự bành trướng của Trung cộng, mỗi người Việt trong chúng ta, từ quốc nội tới hải ngoại, lúc nào cũng mang sẵn dòng máu của những anh hùng đã từng đánh Tống, bình Chiêm, kháng Nguyên, bại Minh, đã từng dạy cho quân Thanh những bài học đích đáng, hãy quyết đấu tranh để tự cứu, cứu dân, cứu nước .



 Những người yêu nước với biểu ngữ đang chuẩn bị diễn hành nhưng bị đàn áp ngay sau khi biểu dương khoảng 10 phút. Link
 

 Giọt nước mắt em tôi tuôn rơi trước cảnh đối xử thô bạo đối với những người có lòng với đất nước.


Chị Bùi Thị Minh Hằng (một người yêu nước nồng nàn)  dù bị cưỡng bách lên xe vẫn đả đảo Trung Quốc xâm phạm chủ quyền tồ quốc. Link

 Biểu ngữ ”Đằng giang tự cổ huyết do hồng!”. Link

Theo bóng cờ Bình Ngô, hỡi con cháu Lê Thuận Thiên, hãy can đảm vùng lên, cứu quốc và tồn chủng !
Nhới lời Thề Sát Thát, hỡi giống giòng Trần hưng Đạo, hãy bất khuất trổi dậy, tự chủ và tự cường !
Hồn Kinh Dương, Vạn thắng, Chi Lăng, Đống Đa hằng thức tỉnh.

Máu người Việt từng đánh Tống, bình Chiêm, kháng Nguyên, đuổi Minh, bại Thanh còn thôi thúc,
Ai là người còn xót thương máu xương Bãi Xậy, Yên thế, Thái Nguyên, Yên Bái,

Hãy vùng lên để rửa hận, rửa nhục ! Hãy tiến lên để giành quyền tự chủ !

Đừng để giống nòi còn mắc họa xiềng gông cộng sản !

Đừng để núi sông mãi mang vòng tủi hổ !

Paris ngày 03/06/2012

Chu chi Nam

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

Nguồn Email

Blog Mười Sáu(hình ảnh)


Dòng Sử Việt Sẽ Không Ngừng – Chu Chi Nam

Nguoilinhsau36nam.jpg picture by nhacyeuem

Hình vẽ Hộ Tống Hạm Nhật Tảo trong trận hải chiến với Trung Cộng để bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhân dịp Hội Ái Hữu Hải Quân tổ chức Lễ Tưởng Niệm các Anh hùng, Liệt sĩ đã hy sinh trong trận đánh Hoàng Sa năm 1974 tại Nam California, Hoa Kỳ.

***

Bài đọc suy gẫm: Dòng Sử Việt Sẽ Không Ngừng tức “Quyết Đấu Tranh Để Cứu Quốc và tồn Chủng!” của tác giả Chu Chi Nam.

Hình ảnh minh họa:  Nhân kỷ niệm 1 năm, ngày mồng 5 tháng 6.   Ngày con dân Việt Nam xuống đường biểu tình chống bành trướng, bá quyền Trung Quốc .  Blog 16 xin trích đăng lại những hình ảnh chọn lọc từ các cuộc biểu tình trong năm 2011. Cũng trong năm này, đảng cộng sản lộ rõ mặt thái thú, tay sai cho Bắc Kinh khi đàn áp những người biểu tình vì yêu nước.

 Sài GònMột số viên chức cũ mới của nhà nước việt cộng cũng hăng say tham gia biểu tình. Người đứng bên góc phải (áo trắng) là Huỳnh Tấn Mẫm, sinh viên thiên tả, cựu chuyên viên biểu tình chống chánh phủ VNCH trước 1975.

 Trong ngày biểu tình 5/6/2011 tại Sài Gòn.  Một thanh niên có lẽ tên là Tuấn, mặc áo thung có in chữ” No China” bằng cách nào đó đã vượt qua được hàng rào ngựa sắt của công an, vào tận bên trong, đối diện với toà lãnh sự quán tàu cộng.  Anh đứng yên lặng, đầu hơi cúi xuống, hai tay giơ cao biểu ngữ phản đối Trung quốc xâm phạm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam. .. cứ đứng im như vậy từ sáng cho tới chiều. Link

251678_229099807102165_100000064413286_997395_7601415_n.jpg

Tôi đã thấy trong tim anh rực lửa
Lửa tiên rồng thời Quốc Toản ra quân
Lửa hiên ngang bất khuất, đốt hung thần
Quân bán Nước: quên cội nguồn Dân tộc…
Huyen Thoai

Cô giáo (hình trên)  và nghệ sĩ yêu nước (hình dưới – Ca sĩ Khánh Linh ) tham gia biểu tình.

  Cô Trịnh Kim Tiến, có người cha thân yêu bị công an Hà Nội đánh chết rất oan ức cũng tham gia biểu tình.

  259678_10150207812588181_718643180_7283637_118027_o.jpg

Cháu bé nhìn chú công an hỏi:” chú ơi, chú có yêu nước không?” Các chú cúi gầm mặt xuống.

 

                    QUYẾT ĐẤU TRANH ĐỂ CỨU QUỐC VÀ TỒN CHỦNG – Chu chi Nam

Ngày mồng 5 tháng 6, ngày kỷ niệm một năm dân Việt xuống đường chống Trung cộng bành trướng, mỗi người Việt chúng ta, từ quốc nội tới hải ngoại, hãy tự nhủ :
Quyết đấu tranh để cứu quốc và tồn chủng !

Kể từ ngày vua Hùng dựng nước tới nay, đã gần 5,000 năm, trong đó có 1,000 năm Bắc thuộc và 100 năm Pháp thuộc, dân tộc Việt đã kiên cường vừa chống ngoại xâm vừa dựng quốc và kiến quốc.

Giang sơn gấm vóc từ ải Nam quan tới mũi Cà mâu, mà chúng ta có được ngày hôm nay, là chính nhờ tiền nhân chúng ta đã đổ biết bao xương máu, qua bao triều đại mới có được.

Nhưng giận thay bọn cộng sản, bắt đầu từ Hồ chí Minh, lại bán nước, dâng đất nhượng biển cho Trung cộng.

Vào những năm 50, khi sửa đường xe lửa ở biên giới Việt Hoa, Trung cộng đã tự động rời những cột mốc về phía nam, lấn đất Việt Nam; chính báo Nhân Dân của cộng sản thời đó có lên tiếng phản đối; nhưng chỉ là lấy lệ.

Rồi tiếp tục với công hàm của Phạm văn Đồng đề ngày 14/9/1958, trả lời công hàm của Chu ân Lai có đính kèm bản đồ nói là 2 quần đảo Hoàng sa và Trường sa là của Trung Cộng. Chính vì vậy mà Trung cộng đòi chủ quyền về 2 quần đảo này ; mặc dầu theo công pháp quốc tế, theo lịch sử và địa lý, thì 2 quần đảo này là hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam.

Việc dâng đất nhượng biển còn tiếp tục với Lê khả Phiêu, qua 2 Hiệp ước ký với Trung cộng vào năm 1999, dâng gần 1,000km2 vùng biên giới, trong đó có thác Bản Giốc và ải Nam quan; và Hiệp ước năm 2,000 dâng cho Trung cộng cả chục ngàn cây số vuông vùng biển.

Ngày hôm nay, thì Nông đức Mạnh, Nguyễn tấn Dũng cho Trung cộng thuê rừng sát vùng biên giới và cho Trung cộng khai thác bô xít ở cao nguyên Trung phần, xương sống về địa lý chiến lược Việt Nam, dọn đường cho Trung cộng đánh chiếm Việt Nam trong tương lai.

Hà Nội – Nhà Hát Lớn

 

Bản Tuyên Cáo quan trọng của những người biểu tình xướng lên trước quốc dân tại Nhà Hát Lớn Hà Nội trước các phóng viên quốc tế và một rừng Trái Tim Yêu Nước.  :” Chúng tôi, những người dân yêu nước Việt Nam quyết tâm làm tất cả, nguyện đem tất cả sức mình để chống lại các hành động xâm lấn hiếu chiến của nhà cầm quyền Trung Quốc, bảo vệ vững chắc chủ quyền đất, biển, đảo của Việt Nam.”  Đây chính ra là việc phải làm của tà quyền cộng sản nhưng chúng hèn nhát không dám làm, ngược lại …

Bờ Hồ – Tiếng vĩ cầm vi vút hòa theo nhịp đập yêu nước từ trong tim: ” Nhữ Đẳng Hành Khan Thủ Bại Hư…”

 
”Vì sao, vì ai?” biển biểu ngữ nội dung độc đáo này khiến bọn xấu có tịch rất ư là nhột nhạt.


 Bởi lẽ đó, những ai chủ trương chống sự bành trướng của phương bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là hoàn toàn sai lầm.

Không những không bảo toàn được sự toàn vẹn lãnh thổ, mà còn mất đất, mất biển thêm.

Xưa kia Kiều công Tiễn, lợi dụng lúc đất nước mới thành lập, phải trái chưa tỏ, kỷ cương chưa vững, lòng người chưa định, tìm cách giết vua bán nước.
Lê chiêu Thống xem ngôi báu của mình hơn quyền lợi quốc gia, dân tộc, nhân lúc Bắc hà nhiễu loạn, đã dẫn quân ngoại bang về giày xéo quê hương.

Ngày nay Đảng Cộng sản chẳng khác chi Kiều công Tiễn, Lê chiêu Thống, đặt quyền lợi đảng đoàn lên trên quyền lợi quốc gia dân tộc, đã qụy lụy Bắc phương, dâng đất nhượng biển cho chúng, để giữ quyền.

Ngày xưa vua Hùng dựng nước. Ngày nay Cộng sản bán nước.

Nhưng dòng lịch sử Việt không ngừng ở đây.

Hành động của những kẻ buôn dân, bán nước, sẽ bị dân Việt kết án và tiêu diệt.

Chuyên chỉ xảy ra dưới nhà nước cs. . Yêu nước là trái phép. Bắt hết. Link

Công an phường Tràng Tiền lén lút bắt một người yêu nước đi trong đoàn biểu tình bị đồng bào phát giác.  Mọi người bèn quay trở lại bao vây đồn của bọn xấu, đồng loạt hô to “Thà người, thả người, thả người…”. “Được rồi, đừng la hét nữa, thả ngay, thả ngay, hiểu lầm thôi…”.  Qua chuyện này ta thấy chính nghĩa và lòng yêu nước toát ra sức mạnh làm bọn có những hành vi sai trái hoảng sợ…Link

Bạn thanh niên yêu nước này bị bắt sau khi đã rời đoàn biểu tình chừng 200m.  

“Tôi có tội gì? nếu yêu nước là có tội  thì phải bắt ngay những kẻ bán nước?”

  

Theo BBC-Anh Nguyễn Chí Đức bị tên Đại úycông an Minh, mặc thường phục đạp vào mặt khi đang bị bốn công an cầm tay cầm chân.

Ngày xưa Ngô quyền, Lý thường Kiệt, Trần hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ đã thay mặt cho uy quyền quốc gia dân tộc, không những trừng trị nghiêm ngặt kẻ nội thù, mà còn dạy những bài học đích đáng cho kẻ ngoại xâm.

Trần hưng Đạo và vua quan nhà Trần đã chứng minh hùng hồn là nếu quân dân đồng lòng thì có thể chiến thắng cả một kẻ thù hung bạo như đế quốc Mông cổ, không những có thể giữ vững nền độc lập, mà cả sự toàn vẹn lãnh thổ.

Hôm nay, ngày mồng 5 tháng 6, kỷ niệm một năm, ngày dân Việt xuống đường chống lại sự bành trướng của Trung cộng, mỗi người Việt trong chúng ta, từ quốc nội tới hải ngoại, lúc nào cũng mang sẵn dòng máu của những anh hùng đã từng đánh Tống, bình Chiêm, kháng Nguyên, bại Minh, đã từng dạy cho quân Thanh những bài học đích đáng, hãy quyết đấu tranh để tự cứu, cứu dân, cứu nước .


Những người yêu nước với biểu ngữ đang chuẩn bị diễn hành nhưng bị đàn áp ngay sau khi biểu dương khoảng 10 phút. Link

Giọt nước mắt em tôi tuôn rơi trước cảnh đối xử thô bạo đối với những người có lòng với đất nước.

Chị Bùi Thị Minh Hằng (một người yêu nước nồng nàn)  dù bị cưỡng bách lên xe vẫn đả đảo Trung Quốc xâm phạm chủ quyền tồ quốc. Link

Biểu ngữ ”Đằng giang tự cổ huyết do hồng!”. Link

Theo bóng cờ Bình Ngô, hỡi con cháu Lê Thuận Thiên, hãy can đảm vùng lên, cứu quốc và tồn chủng !
Nhới lời Thề Sát Thát, hỡi giống giòng Trần hưng Đạo, hãy bất khuất trổi dậy, tự chủ và tự cường !
Hồn Kinh Dương, Vạn thắng, Chi Lăng, Đống Đa hằng thức tỉnh.

Máu người Việt từng đánh Tống, bình Chiêm, kháng Nguyên, đuổi Minh, bại Thanh còn thôi thúc,
Ai là người còn xót thương máu xương Bãi Xậy, Yên thế, Thái Nguyên, Yên Bái,

Hãy vùng lên để rửa hận, rửa nhục ! Hãy tiến lên để giành quyền tự chủ !

Đừng để giống nòi còn mắc họa xiềng gông cộng sản !

Đừng để núi sông mãi mang vòng tủi hổ !

Paris ngày 03/06/2012

Chu chi Nam

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

Nguồn Email

Blog Mười Sáu(hình ảnh)