Làm tôi hai chúa! – Nguyễn văn Lục

Bài đọc suy ngẫm: “Làm tôi hai chúa” hay Bọn trí thức bốn tên, viết về một số nhân vật thiên tả, giai đoạn lịch sử trước 1975. Bài viết này theo tác giả Nguyễn văn Lục, để nhìn lại những con người, những giai  đoạn khủng hoảng ấy, để rút ra một bài học cho riêng mình và cho chúng ta.
Thật cay đắng cho chính quyền, người dân miền Nam Việt Nam.

****************

(Chữ dùng của nhà báo Thiên Hổ, tức linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo Xây Dựng mang ý nghĩa miệt thị và bực bội)

Làm chính trị mà hỏng thì chỉ hại đến một thể chế của một thời kỳ. Nhưng làm văn hóa mà hỏng thì hại muôn đời”.

Đất nước này, ở Đệ Nhì Cộng Hòa, nó không còn thể thống, tôn ty trật tự và uy quyền quốc gia. Cộng thêm thành phần lực lượng thứ ba phá hoại đủ kiểu đi đến chỗ mất miền Nam vào năm 1975.

Bài viết này nhìn lại những con người, những giai  đoạn khủng hoảng ấy để rút ra một bài học cho riêng mình và cho chúng ta.

Sự trùng hợp bốn tên ở trên có thể là chuyện đời thường. Nhưng nhớ lại sau 1963, cùng một lúc có bốn tên Trung TR rồi Chung CH đồng loạt.

Đó là những Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung- CH rồi Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung.-T.

Từ đó bè cánh họ phát triển bề rộng lây lan sang nhiều trí thức trẻ khác cùng tham gia..

Thành ra bài này nói về họ mà thật ra nói về tất cả bọn họ. Họ là cái “rễ trùm” tiêu biểu, còn kẻ khác là  “rễ nhánh” ăn theo.

Trách nhiệm không phải chỉ quy vào 4 người mà nhiều người.

Trường hợp Võ Long Triều

Có thể nói, kỹ sư Võ Long Triều là đầu mối mở đầu cho mọi rắc rối chính trị sau này.

Ông du học Pháp, đồng thời với linh mục Nguyễn Quang Lãm. Họ là những sinh viên Việt Nam xa xứ nên dễ gần nhau. Ông Lãm sau này là chủ nhiệm, chủ bút tờ báo Xây Dựng. Khi hai người về Việt Nam, họ vẫn giữ liên lạc bạn bè, toi, moi, có khi cả mày, tao.

Khi ấy, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ muốn dựa vào thế  mạnh của cánh miền Nam nên đã nhờ LM. Lãm giới thiệu cho một người.  Ông lm Lãm nghĩ ngay đến Võ Long Triều, một người bạn cố tri và giới thiệu với tướngKỳ.

Tướng Kỳ hoan hỉ có thêm vây cánh miền Nam để đối đầu với TT. Nguyễn Văn Thiệu.

Kỹ sư Võ Long Triều vốn nằm trong Phong trào Phục Hưng Miền Nam- sau này còn được gọi là Nhóm Liên Trường. Trớ chêu thay, nó mở đầu cho sự lợi dụng qua lại giữa một Bắc, một Nam mà hai bên cùng có lợi. Được sự đỡ đầu của ông Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ- một dân Bắc Kỳ chính hiệu- tiêu biểu như một “người hùng chống cộng” mà mục đích của ông là tạo thêm phe cánh Nam Kỳ nhằm phá rối ông Nguyễn Văn Thiệu.

Ông Kỳ vì thế đã triệt để ủng hộ Võ Long Triều.

Về mặt chính trị

Võ Long Triều lợi dụng làm trung gian xây dựng một số phe nhóm dân biểu đối lập miền Nam như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Hồ Văn Minh, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung, Ngô Công Đức và nhiều người khác ở các tỉnh như Bành Ngọc Quý, Nguyễn Hữu Hiệpvv..

Ông Triều chu cấp tiền bạc ủng hộ nhóm dân biểu đối lập tại Hạ viện. Bọn họ nhờ đó thao túng và gây rối chính trị cho miền Nam đủ loại một cách hợp pháp.

Cái giá phải trả cho sự “ ngây ngô” của ông Võ Long Triều chu cấp cho bọn dân biểu đối lập quậy phá miền Nam là 11 năm tù cải tạo thời cộng sản. Sau này được vợ bảo lãnh sang Pháp.

Đồng thời ông Triều cũng đỡ đầu một phong trào xã hội có tên Chương trình Phát triển Quận 8 nhằm biến các khu nhà ổ chuột thành các khu dân cư khang trang. Những người tham gia vào nhóm này đều là những thanh niên trí thức trẻ, đầy nhiệt huyết và thiện chí như: Bác sĩ Hồ Văn Minh làm tổng quản lý đầu tiên(sau này là Đệ nhất, phó chủ tịch Hạ Nghị viện),Hồ Ngọc Nhuận được chỉ định làm Quận trưởng hành chánh, thêm chức Phó quận là Mai Như Mạnh- xuất thân trường Quốc Gia Hành chánh-Cùng lãnh đạo phong trào có luật sư Đoàn Thanh Liêm thay thế làm tổng quản lý và một số đông giáo chức mà phần lớn người viết bài này đều quen biết như: Uông Đại Bằng, Hồ Công Hưng, Võ Văn Bé, Nguyễn Phúc Khánh, Dương Văn Long, Nguyễn Ngọc Thạch, Đặng Kỳ Trân, Nguyễn Đức Tuyên.

Sau này có thêm hai anh Quốc Gia Hành chánh Là Nguyễn Ngọc Phan và hạm Duy Tuệ làm phó quận. Lại có thêm anh Nguyễn Văn Mừng, kỹ sư canh nông từ Mỹ về . Tất cả khoảng trên dưới 20 người.

Họ còn độc thân nên sống cùng làm, cùng ăn ở với dân trong làng, xây dựng cầu và đường trải nhựa, nhất là mở trường Trung Học cộng đồng quận 8, rồi mở thêm trường ở quận 6. Anh Uông Đại Bằng, hiệu trưởng quận 8, anh Võ Văn Bé và Nguyễn Đức Tuyên, hiệu trưởng hai trường ở quận 6. Các trường với 30 phòng học và 3000 học sinh các cấp trung tiểu học.

Ông Kỳ cũng hỗ trợ các chương trình này bằng tiền bạc và vật liệu.

Có những tên họ đặt rất ấn tượng như “Hẻm ước” “Khóm ước”. Có lần Phó tổng thống Hoa Kỳ Humphrey cũng đến thăm chương trình quận 8 và khen ngợi là một bước phát triển xã hội.

Ông Thiệu thì thấy ngứa mắt nên buộc họ phải bàn giao chương trình này cho ông Đô trưởng Đỗ Kiến Nhiễu, sau này sát nhập vào hệ thống công quyền. Chương trình phát triển Quận 8 dần đi vào dĩ vãng, hết năng động. Các thày giáo vốn nhiệt tâm và lý tưởng, giờ chán nản, rủ nhau trở về nhiệm sở cũ. Thật đáng tiếc và đáng buồn do những tranh chấp nội bộ giữa Thiệu-Kỳ.

Nguyễn Cao Kỳ.

Nói về cái công hay tội của ông Kỳ thì công cũng có mà tội cũng không ít. Công chẳng bao nhiều mà tội góp phần vào sự phá rối miền Nam thì lấy gì bù đắp được? Ông thuộc loại người làm chính trị bốc đồng, bạ đâu hay đó, thiển cận mà thích phô trương, hù dọa không thiếu. Cho nên chẳng lấy gì làm lạ từ khi ra hải ngoại, ông thuộc loại người vô tích sự, hết thời đến độ chán nản, về Việt Nam bắt tay với cộng sản, bất chấp dư luận người Việt hải ngoại.

Lý Quý Chung

Lý Quý Chung nhìn nhận ông bước vào chính trường, trúng cử 3 lần dân biểu đối lập là nhờ sự hỗ trợ tiền bạc của Võ Long Triều, Lý Quý Chung viết: “Võ Long Triều  là thày dùi, một trong những đầu mối tập hợp quân cho tướng Kỳ. Người tài trợ cho các ứng cử viên dân biểu được ông Triều tài trợ không ai khác là tướng Kỳ.”

Điều đó chứng tỏ cả tướng Kỳ lẫn Võ Long Triều đều có tội đối với miền Nam.

Tờ Tin sáng

Và để có tiếng nói chung của nhóm, họ còn cho ra tờ báo Tin Sáng như một chỗ dựa cho cả nhóm.. Tờ Tin Sáng do dân biểu đối lập tại Hạ Nghị Viện là Ngô Công Đức đứng tên chủ báo vào năm 1968, quy tụ khá đầy đủ những tên tuổi đối lập, sau này được gọi là thành phần thứ ba với những nhân vật gốc rễ như Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, linh mục Nguyễn Ngọc Lan sau hồi tục, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung.

Lý Chánh Trung khai chiến, mỉa mai với bài : Chợ Chiều. Sinh viên Trần Quang Long với bài: Thực tại và ước mơ. Nguyễn Văn Trung với bài lý luận: Mỹ thua Mỹ ở Mỹ.. Dương Văn Ba: Không còn ảo tưởng. Một anh Mỹ Don Luce với bài: Giã từ Việt Nam khói lửa và bài Chuồng cọp Côn Đảo.

Mục đích của tờ báo là kịch liệt chống Mỹ-Thiệu không ngưng nghỉ và đòi hỏi chấm dứt chiến tranh. Tổng kết Tin Sáng với 349 số báo mà một phần ba các số báo bị tịch thu.

Và tờ Tin Sáng đóng cửa năm 1971 khi Ngô Công Đức thất cử rồi phải trốn sang Pháp qua lối Cam Pu Chia. Ở bên Pháp, ông móc nối lại với đại diện cộng sản tại Pháp.

Mặc dù chỉ tồn tại ba năm. Ba năm ấy, nó cũng đã gây được tiếng vang và sự thành công nhất định.

Họ hãnh diện và hí hửng mừng thầm, chính quyền hầu như bất lực.

Bề ngoài, người ta tưởng rằng đây là một tập hợp những người đồng chí hướng, liên kết chặt chẽ như một sức mạnh chính trị, thành một Khối, chia sẻ công việc và coi như anh em, hay ít ra là đồng chí.

Thật sự nó không hẳn như mọi người lầm tưởng. Sau này cho thấy nó phân mảnh,tan rã đi đến chỗ thù địch,tố cáo nhau gian lận như trong Hồi Ký Những Ngã Rẽ của Dương Văn Ba.

Nội hai người tạm gọi là đầu đàn là Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung, bề ngoài tưởng họ liên hệ, làm báo chung trên tờ Sống Đạo, rồi trên tờ Hành Trình, Đất Nước, rồi Trình Bày. Vậy mà sau 1975 , Lý Chánh Trung làm dân biểu, người đại diện cho Mặt Trận. Nguyễn Văn Trung bị hất ra rìa, có lúc bị biệt giam 6 tháng. Sau đó thu xếp cho con trai trưởng đi chui và bảo lãnh gia đình ông và sống còn lại với những ngày thầm lặng.

Như thế rõ ràng là đối lập cuội.

Về Lý Chánh Trung

( Xin mời đọc bài của người viết đăng trên Đàn chim Việt, Info: Thân phận những kẻ dư thừa.)

Lý Chánh Trung với những bài nịnh bợ Đảng như Một thời bom đạn, một thời hòa bình, Đối diện với chiến tranh:  Người viết đã viết đầy đủ về con người và hành trạng của ông. Con người ông có lúc công khai tuyên bố từ bỏ đạo công giáo để lấy lòng đảng, chỉ đến khi một cậu con trai bị xe tông phải sống đời thực vật trong nhà. Đây là nỗi đau riêng mà gia đình ông bà phải chịu đựng không thể nói ra lời. Ông như hối hận, trở lại đạo và khi chết có theo nghi thức công giáo.

Khi ông mất, thọ 86 tuổi, cái còn lại duy nhất ông đựợc thừa hưởng là căn nhà trong làng Đại Học Thủ Đức ở số 17, đường Công Lý, quận Bình Thọ, Thủ Đức do TT. Ngô Đình Diệm giúp tiền xây cất và tùy mỗi người chọn nhà thầu xây cất tùy ý.. Ông cúc cung tận tụy với đảng, hãnh diện cho con trai tình nguyện sang Campuchia, thử hỏi Đảng đã cho ông được cái gì? Họa chăng mấy cái bằng khen và mấy hình ảnh lãnh tụ cộng sản lộng kính treo ở ngay phòng khách?

* Về Lý Quý Chung(1940-2005)

Chung có thể là người trẻ nhất, tay mơ nhất trong bọn họ. Cuốn sách đầu tay của Chung là : Hồi Ký Không Tên. Sau đó được Diễn Đàn Talawas phổ biến lại. Cuốn sách kể ra không đến nỗi tệ.

Thoạt đầu ông khởi nghiệp báo như một ký giả, ông có tham dự cuộc hành hình ông Ngô Đình Cấn-cố vấn miền Trung- .

Thời điểm ấy, sau cái chết của anh em ông Diệm, có nhiều thành phần trở cờ như trường hợp tờ Sài gòn Mới, Chủ nhiệm là bà Bút trà. Nhiều bài viết sau này cũng hùa theo bôi nhọ chế độ Đệ I Cộng Hòa. Thật ra, không ai cấm họ viết như thế, nhưng với điều kiện trước đây, họ đừng có khen, đừng xu nịnh chế độ.
( Xin đọc thêm bài viết: Mạn đàm với Vĩnh Phúc, cũng đã đăng trên Đàn Chim Việt. Info)

Khinh họ là ở chỗ đó. Nhân cách họ không có, từ rỉ rả ca tụng hết lời thành chửi bới thô tục.

Phần nhà báo Lý Quý Chung trong chương: Chập chững vào nghề báo. Có thể ông là nhà báo trẻ duy nhất không viết về hùa theo đám đông.

Ông đã nhận xét một cách khách quan về thái độ can đảm và bình tĩnh của ông Ngô Đình Cẩn trước những lời tố cáo đủ loại của nhiều người trước đây vốn thường quỵ lụy ông Cẩn.

Lý Quý Chung viết: “ Tôi vẫn nhớ thái độ ông Cẩn trước tòa án rất ngạo mạn, ông chẳng quan tâm gì đến diễn tiến phiên tòa. Chẳng chú ý đến các lời buộc tội ông. Ông mặc bộ đồ bà ba, mầu trắng, mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các phiên xử. Nhiều lúc còn có cử chỉ tỏ vẻ khinh khi khi các tướng tá  đang ngồi xử mình. Và lúc bị đưa ra hành quyết, ông bị trói chặt vào cột hành quyết và lúc sắp sửa bị bịt mắt bằng vải đen thì ông ta phản ứng. Ông nhất định không để bị bịt mắt, muốn được nhìn tận mắt cuộc hành quyết mình. Người ta vẫn bịt mắt ông và một loạt súng kết liễu mạng sống của người thứ ba và là em út trong gia đình họ Ngô.

 Ảnh: Ông Ngô Đình Cẩn

 Bài tường thuật của tôi nhấn mạnh hai điểm: Ông Cẩn không sợ chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử ông tại tòa.

( Xin đọc thêm, Hồi Ký của Luật sư Quan, rất xúc động cũng viết về ông Cẩn trước tòa và thái độ trước cái chết với bản án tử hình. Phải đợi khoảng gần 30 năm sau trong Hồi ký của luật sư Quan- người biện hộ cho ông Cẩn- NGHỀ HAY NGHIÊP, đăng trên tờ Thế Giới Ngày Nay ở Kansas, Hoa Kỳ, năm 1992)

Ông Lý Quý Chung chứng tỏ khi viết về bản thân mình cũng khá trung thực như tỏ bày: ông học dở dang, vỏn vẹn có bằng tú tài I, chương trình Pháp. Tay nghề làm báo kể như khởi đi từ số không. Đã có lần bố ông từ ông, vì vụ đánh tư sản tại nhà ông cụ. Ông viết lại về  lời nguyền rủa của ông cụ:” Tao không muốn gặp mặt mày nữa. Gia đình mày đã ra thế này, cha mày đã ra thế này mà mày còn viết báo cho cộng sản. Cha mày từ mày.”

Ông viết tiếp:” Còn các em trai của tôi thì không tin vào người anh của mình nữa. Chỉ làm thinh để chuẩn bị vượt biên. Như vậy cùng một lúc tôi mất bảy đứa em.”

Kể ra cái giá theo cộng sản thật là đắt. Chẳng những thiệt hại cho bản thân mình mà còn bị gia đình ruồng bỏ

Bài học như vậy mà nhiều người vẫn không học xong.

Phần ông, ông vẫn tiếp tục lăn vào chính trị một cách hầu như vô ý thức để thời cuộc đưa đẩy hay chạy theo chủ nghĩa cơ hội.

Khởi đi từ lúc đầu chỉ là trí thức khuynh tả xông xáo, nhảy sang đứng giữa, rồi trở thành phần thứ ba và cuối cùng thành phần “ bưng bô cộng sản”.

Người viết sẽ còn có dịp mổ xẻ về vấn đề này một cách chi tiết và đầy đủ về những kẻ chọn lầm bên..

Cùng lắm, có thể nhận xét một cách công bằng cuối cùng ông chỉ đạt được một nửa cuốn sách khi viết về VNCH. Nửa sau, ông đã phải “nín thở qua sông” trước áp lực chính quyền cộng sản mà trong một bài người viết điểm cuốn sách đã một lúc mỉa mai đổi tựa đề cuốn sách của ông thành: Nhật Ký Của Im Lặng.

Dựa theo Hồi Ký Không Tên, người viết nhớ lại sau 1963 xuất hiện hàng loạt những khuôn mặt chính trị non trẻ, không có một tý bề dầy chính trị gì cả cũng như sinh hoạt Nghị Trường. Họ là những Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung, Hồ Ngọc Nhuận(Tác giả cuốn Đời, in photocopy, một trong những người khôn ngoan, lanh lợi, luồn lách quậy phá nhất trong chốn Nghị Trường), Phạm Thế Trúc(sau chốn sang Nhật không về), Nguyễn Hữu Hiệp, Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Cứ, Hoàng Ngọc Biên, Dương Văn Ba, Nguyễn Văn Châu, Bành ngọc Quý, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Tấn Mẫm.

*Những ngõ quặt chính trị trước 1975: Sự lộ diện thêm quyền lực tôn giáo tham gia vào chính trị để chia phần.

Phải buồn mà thú nhận rằng, con đường làm chính trị của các dân biểu cũng như 6 liên danh Thượng Nghị Sĩ lúc bấy giờ- dù Liên danh của công giáo hay Phật giáo hay tướng lãnh- hầu như tất cả không trừ-đều qua cánh cửa chùa hoặc cổng nhà thờ.

Sư sãi, cha cố trở thành những kẻ che dù, những người ban phát quyền lực chính trị. Thần quyền lấn lướt thế quyền là điều không chối cãi được.

Đó là cái thời mạt vận nhất của nền Đệ II Cộng Hòa báo hiệu một thời kỳ giông bão gần tới..

Và đây là lời thú nhận của nhà báo Lý Quý Chung: “Trong khi chuẩn bị cho cuộc vận động cho liên danh Dương Văn Minh với tư cách đại diện báo chí, tôi đã tiếp cận giới Phật giáo Ấn Quang, tìm sự ủng hộ của lực lượng Phật giáo có hậu thuẫn quần chúng lớn nhất. Ông viết tiếp: “ Lần đầu tiên, theo báo Newsweek gọi TT. Trí Quang là “Người làm rung chuyển nước Mỹ”. Khi tiếp xúc thì thấy con người ấy đã toát lên một thứ thần sắc khác thường. Ánh mắt sắc như sao băng, chiếu thẳng vào người đối thoại như nhìn thấu những suy nghĩ của họ. Tôi nhớ mãi ấn tượng đầu tiên ấy khi lần đầu khi gặp nhà tu hành nổi danh.

Khi ra Huế, dân biểu Lý Quý Chung cũng đưa ra một nhận xét khá đặc biệt khi gặp Đức Tăng Thống:  “Trong chùa Bảo Quốc, chỉ treo một bức  ảnh chân dung duy nhất trên tường. Đó là chân dung Thượng tọa Trí Quang. Như thế đủ thấy ảnh hưởng của thầy Trí Quang với người lãnh đạo tinh thần cao nhất của Giáo hội Phật giáo là như thế nào.”

Cho nên, hai quyền lực đó đáng nhẽ không đi đôi, dung hợp với nhau. Hoặc có cái này thì không có cái kia.

Người ta không thể làm tôi hai chúa một lúc được. Nó báo hiệu một sự sa đọa trần thế khó tránh được.

Riêng Lý Quý Chung, càng ngày càng cho thấy ông sa đà vào quyền lực, đi tìm một chỗ đứng cho mình. Thời VNCH, ba nhiệm kỳ đắc cử làm dân biểu đối lập tưởng yên phận.

Sau đó, từ đối lập nhảy sang tình nguyện làm một thứ gia nô cho cộng sản, ca tụng một cách hèn hạ, tự bôi nhọ, xóa bỏ chính mình.

Người viết, xin trích dẫn một đoạn trong cuốn: Vivre au Viet Nam của Alain Ruscio như sau: “ Như phần đông bạn bè chúng tôi ở đây, tôi có kinh nghiệm làm báo ở hai chế độ. Như Đức, người giám đốc điều hành của chúng tôi: Trước đây, chúng tôi chỉ là những người thợ bửa củi, còn bây giờ chúng tôi là những người thợ nề. Hai thái độ hoàn toàn khác biệt nhau.Trong ý nghĩa muốn xây dựng mà chúng tôi sẵn sàng dấn thân. Ngày hôm nay, tôi tự cảm thấy mình là người hữu dụng cho xã hội Việt Nam, cho dân tộc tôi, gắn bó hơn với đời sống của đất nước tôi, trách nhiệm hơn. Và đúng vậy. Đó là con người tôi ngày hôm nay.” (Sách trang 176)

Về điểm này, Hồ Ngọc Nhuận có viết lại một cách mỉa mai: “Trước đây chúng tôi là thợ bửa củi, bây giờ chúng tôi là thợ mộc biết đục và bào nhẵn”

Có lần Lý Quý Chung còn hèn mạt đến độ còn viết thư thành khẩn xin với Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho ông được vào đảng cộng sản.!!

Rồi cái gì cần xảy đến thì đã xảy đến.

Trong chương 25 nói về: Thời khắc lịch sử: Sự đầu hàng của Dương Văn Minh.

Vào thời điểm đó, rợp lá cờ Giải phóng, nửa xanh, nửa đỏ tung bay khắp nơi. Xe cộ, trẻ con, nhà nhà rợp bóng cờ màu xanh.

Vậy mà chẳng bao lâu sau, khoảng chừng một tháng, lá cờ màu xanh đỏ biến mất trên đường phố Sài Gòn.

Như thế, phải nói lại là miền Nam có hai lần Giải phóng. 30-04, giải phóng cờ Quốc Gia, cờ màu vàng  ba sọc đỏ. Sau khoảng một tháng, giải phóng cờ một lần nữa.

Lá cờ màu xanh đỏ thay thế bằng lá cờ đỏ sao vàng.

Đó là mặt trái, phản bội vốn dĩ của người cộng sản, vắt chanh rồi bỏ vỏ không thương tiếc.

Tóm tắt những trang Hồi ký của ông viết về giai đoạn trước 1975 như sau:

-Vai trò của trí thức miền Nam Việt Nam

-Bộ mặt thật của sinh hoạt chính miền Nam dưới thời Đệ II Cộng Hòa.

– Vai trò chủ động của người Mỹ trong những yếu tố quyết định số phận miền Nam.

-Tính cách con rối của toàn bộ sinh họat chính trị ấy. Cuối đời và cuộc sống của gia đình Lý Quý Chung rơi  vào túng quẫn, vợ ông phải tháo gỡ cửa kính trên lầu để có tiền chợ và cuối cùng phải bán cả nhà, đi ở thuê. Đảng cho ông được cái gì?

Về dân biểu Nguyễn Hữu Chung

Đã đến lúc cần nói về nhân vật kín tiếng này. Giữa Lý Quý Chung và Nguyễn Hữu Chung, cả hai đều là những người thân tín của ông Dương Văn Minh. Lý Quý Chung là Bộ trưởng thông trong chính phủ Dương Văn Minh. Nguyễn Hữu Chung là bộ trưởng phủ Thủ tướng. Tuy nhiên cả hai có nhiều sự cách biệt về thái độ sống, về lập trường chính trị.

Thật ra thì những thành phần trí thức thiên tả này không xa lạ gì với người viết bài này vì cùng thời.

Vì thế, để hiểu rõ về họ, mời bạn đọc thêm bài viết của người viết nhan đề: Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh.

(Đăng rên DCV online. Net)

Nhìn lại hai người qua trung gian Dương Văn Ba trong Hồi Ký: Những ngã rẽ.

Trong hồi ký này, Dương Văn Ba tiết lộ, Dương Văn Ba là thứ trưởng Bộ Thông tin trong chính phủ
Dương Văn Minh. Ông Dương Văn Minh là tượng trưng cho sự thất bại. Cờ đến tay, ông không biết phất, lúc phất đều là phất bậy. Ảnh: Nhân vật lịch sử Dương văn Minh

Theo Hồ Ngọc Nhuận, một người thân cận với đại tướng Dương Văn Minh nhận xét một cách nhẹ nhàng hơn: “ Tướng Dương Văn Minh theo thiển nghĩ của tôi, ít nhiều là một tấn bi kịch, một tư thế luôn chẳng đặng đừng, một đưa đẩy lựa chọn gần như không lúc nào là không miễn cưỡng.”

(Hồ Ngọc Nhuận, ibid, trang 394)

Dân biểu Nguyễn Hữu Chung: Bộ trưởng tại Phủ Tổng thống. Hồ Ngọc Nhuận, Đô trưởng Sài gòn. (Nhưng nghe theo lời khuyên của của Ngô Công Đức mới từ Pháp về khuyên, ông đã lánh không có mặt).

Mặc dù được phong chức Bộ trưởng trong chính phủ hai ngày, ông Nguyễn Hữu Chung có lẽ hiểu được tính cách mong manh và con cờ thí của chính phủ Dương Văn Minh. Vì thế, ông đã vào hội kiến Dương Văn Minh và xin đưa vợ con lên tầu Việt Nam Thương Tín, sau đó, ông xin định cư ở Montréal, Canada cùng chỗ với người viết bài này.

Sau này, trong đám tang ông Dương Văn Minh, ông đã bay sang Mỹ và đọc bài diễn văn ai điếu đầy cảm xúc, đại diện thay cho tất cả mọi người có mặt trong đám tang đó.

Có thể nói dân biểu Nguyễn Hữu Chung là ít tai tiếng nhất trong đám họ.

Ông cũng cùng viết báo cho tờ báo in Đi Tới, chủ bút Đoàn Minh Hóa. Sau đây, xin trích dẫn một đoạn thư của ông để lại như một chúc thư để lại cho đời:

“Anh Hóa,

Bác sĩ cho “ moa” 12 tháng, “ moi” xài  hết 6 tháng rồi. Anh kêu tôi viết, tôi cám ơn anh, nhưng tôi nghĩ mình viết cái gì bây giờ?

Mình viết về một dân tộc mà mình biết có phân nửa. Mình viết về một đất nước mà mình biết có phân nửa. Mình viết về thế hệ tương lai, một thế hệ sanh ra và lớn lên mà cả hai thế hệ này, nó không biết mình là ai, mà mình cũng không biết nó là ai. Anh thấy không, anh kêu tôi viết về tuổi trẻ, về tương lai về một thế hệ  mà đã hơn một phần tư thế kỷ mình không ở đó, cái điều ấy có thế sao, nhưng quan trọng hơn, là mình không dự phần, mình không chia sẻ, thì bây giờ viết cái gì bây giờ. Tôi đi năm 75, ở cái tuổi sung mãn thì chỉ để đi kiếm cơm. Bây giờ về hưu rồi.. Hết rồi “toa”. Nhưng anh cứ nói cho tôi biết, tôi phải viết cái gì bây giờ?

Nguyễn Hữu Chung

Một ngày tháng tư 2003.

Những người chạy theo cộng sản, họ được gì thay cho lời kết luận?

Tôi đã tự hỏi mình và hỏi mọi người, những thành phần lực lượng thứ ba và thiên cộng, họ được gì?

Và xa hơn nữa những người từng chiến đấu, vào sinh ra tử, sát cánh với cộng sản họ được gì và mất gì?

Hãy bắt đầu bằng triết gia Trần Đức Thảo, hồi Trung học, thày dạy ông là giáo sư Neir đã phải thốt lên rằng: Không thể chấm nổi bài ông. Ông đã đỗ đầu vào trường École Normale Supérieure, sau đỗ thạc sĩ dạy ở Sorbonne, thường tranh luận ngang ngửa với J.P. Sartre.

Ông đã gặp ông Hồ và tình nguyện về Việt Nam, đáp tàu đi ngã Mạc Tư Khoa, rồi thẳng đường về Bắc Việt (năm 1951).

Họ Hồ cho ngồi chơi xơi nước, làm công việc dịch thuật những truyền đơn địch vận từ tiếng Việt ra tiếng Pháp. Họ Hồ phán: “Chú đọc sách vở ngoại quốc đã nhiều, nay chú mới về hãy nên học dân trước đã”.

Mặc dầu ông đã hy sinh địa vị cao quý ở Pháp để trở về nước tham gia kháng chiến, ông vẫn bị quy là phản động và tay sai đế quốc.

Giả dụ thay vì về Bắc, ông về miền Nam thì  miền Nam sẽ giang tay rộng mở đón ông như đã đón nhận nhiều người khác. Ông sẽ có một địa vị vững vàng hơn bất cứ ai ở bình diện triết học. Ông sẽ có chỗ ngồi xứng đáng cho kiến thức chuyên sâu về triết học.

Cũng giống như trường hợp nhà văn Nam Cao cũng được miền Nam rộng tay đón nhận cũng như các văn nghệ sĩ khác như Văn Cao, Phan Khôi vv..

Phần Nam Cao với các truyện ngắn hay, đắt giá như: Nghèo, Đôi móng giò, Con mèo và nhất là chuyện Chí Phèo đã được chính thức đưa vào giảng dạy tại trường Đại học Văn khoa Saì Gòn.

(Xem Nam Cao, truyện ngắn tuyển chọn, nxb Văn Học)

Sau này, ông Thảo sống giả điên, giả dại mà vợ cũng bỏ đi lấy một cán bộ cao cấp.

Rồi Nguyễn Mạnh Tường nổi tiếng năm 23 tuổi đã đỗ hai bằng tiến sĩ luật khoa và văn khoa khi học ở Montpellier. Ông viết bài: ‘Những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Xây dựng quan điểm lãnh đạo” . (tháng 10/năm 1956).

Sau này ông viết : Kẻ bị mất phép thông công. Hà Nội 1954-1991. Bản án cho một trí thức.

(luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Hà Nội ngày 30-10-1956)

Ông sống bữa đói, bữa no, có gì còn lại lo bán sạch để cho miếng cơm vào miệng suốt một đời.

  • Tiếp đến đám trí thức, cán bộ nhà văn, nghệ sĩ đã từng sát cánh vào sinh ra tử với “ cụ Hồ” trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp, sau trận Điện Biên Phủ như Nguyễn Hữu Đang, nhạc sĩ Văn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân, Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, Lê Đạt trong cái khẩu hiệu” Trăm Hoa Đua nở”. Họ bị đầy đọa, sống không bằng kiếp chó như Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán. Những thành phần cốt cán sống chết với Đảng còn bị trùy dập như thế thì xá chi đến những thành phần lực lượng thứ ba ở miền Nam?
  • Phùng Quán có làm nhiều bài thơ, nhưng đặc biệt có bài: Lời mẹ dặn.

(Xin tóm tắt)

Con ơi, trước khi nhắm mắt

Cha con dặn con suốt đời

Phải làm một người chân thật.

Mẹ ơi chân thật là gì?

Mẹ tôi hôn lên đôi mắt

Con ơi một người chân thật

Thấy vui muốn cười, cứ cười

Thấy buồn, muốn khóc là khóc!!

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét (1957)

*Trần Dần

(xin tóm tắt) Với bài thơ bất hủ: Nhất Định thắng.

Tôi ở phố Sinh Từ

Hai người

Một gian nhà chặt

Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui…..

Tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ

*Phan Khôi

Phan khôi là một trong những ngòi bút viết phiếm xỏ xiên nhất và cay độc nhất như truyện: Ông Bình Vôi.

nếu như nhược bằng bắt mọi người phải viết theo một lối với mình, thì rồi đến một ngày kia, hằng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết.”

*Bọn trí thức Việt Kiều yêu nước tại Canada

Người viết bài này đã có bài viết nhan đề: Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị.

Đây là những thành phần sinh viên ưu tú của miền Nam Việt Nam được gửi đi du học nước ngòai. Học xong 4 năm, bọn họ nhất tề ở lại để khỏi phải đi lính. Tôi gọi một cách mỉa mai là: Những kẻ đứng ngoài cuộc chiến.

Tệ hại hơn nữa, họ lập hội, buôn bán làm ăn ở phố Beaudry, bóc lột các thuyền nhân mới sang định cư.. Qua trung gian của bọn họ, gửi  các thùng đồ thuốc tây 50 đô la, 100 đô la, 150 đô la để người thân bên nhà bán đi nuôi sống.

Nay cộng sản bên nhà không nhìn nhận họ, người việt Boat people cũng tẩy chay họ.

Nay bọn họ sống chốn lui, chốn ẩn như chồn lùi, không dám giao tiếp với cộng đồng người Việt hải ngoại. Nói chung, họ hèn nhát, ích kỷ, ham sống sợ chết. Ngay cả làm hôn thú giả với các cô gái ăn sương ở tiệm Rickshaw ở phố Tàu Montréal để được ở lại.

Bài viết của tôi như một lời cảnh báo, phê phán nhưng không một ai trong bọn họ lên tiếng phản bác đúng hay sai.

Họ chọn sự im lặng.

Ít lắm xin hài tên bốn người trong bọn họ: Lương Châu Phước, Đỗ  Đức Viên, Trần Tuấn Dũng và Nguyễn Văn Nhã.

Số phận họ coi như một vật phế thải dưới mắt chính quyền cộng sản, vì không còn có giá trị lợi ích nào nữa. Còn đối với cộng đồng người Việt, họ thấy nhục và cúi đầu im lặng.

Còn lại những nhân vật thuộc thành phần thứ ba, quậy phá nát miền Nam thời Đệ Nhị cộng Hòa ra sao?

*Nguyễn trọng Văn

Vào lúc cuối đời, Nguyễn Trọng Văn vốn người Việt gốc Hoa, nhưng ít ai biết điều này. Ông bố Văn là một ông Ba Tàu, bụng phệ, cởi trần tôi chỉ cúi đầu chào và không được nghe tiếng trả lời. Văn ly dị người vợ đầu cũng gốc người Hoa, làm nghề châm cứu rồi anh bị tai biến mạch máu não, phải ngồi xe lăn. Có lấy một người vợ khác, tương đối tốt.

Khi sống, Văn hung hăng đến bá đạo chửi cả thày dạy, truy chụp và vu khống chỉ vì nghe theo lệnh Đảng cùng với Lữ Phương.  Ai bênh thì cứ bênh, nhưng sự thật là như thế.Trước đây, chửi Pham Duy trong bài tham luận: Phạm Duy đã chết như thế nào? Người viết đã có bài viết: Phạm Duy còn đó hay đã chết?

Cũng cùng một lẽ ấy Nguyễn Trọng Văn sẵn sàng phê phán người đã đỡ đầu cho ông làm luận án do sự giới thiệu trực tiếp của tôi. Văn đã viết bài: Những người con hoang của J.P. Sartre. Và sau này làm trợ giảng cho giáo sư Trần Thái Đỉnh.

Nay sống thui thủi một mình, vẫn ở trong một căn nhà hẹp vài chục mét vuông, hẻm đường Nguyễn Tri Phương mà trước đây tôi thường đến chơi: số nhà T.6, cư xá Bắc Hải Hồng Lĩnh, quận 10. Văn qua đời, sau đó được hỏa táng. Không biết có bao nhiêu người người thăm viếng vào ngày 23 tháng 06-năm 2013?

Ngô Công Đức

Ngô Công Đức vừa là một nhà báo, vừa là một doanh nhân thành đạt. Tiền bạc nhiều cỡ bạc tỷ. Có lúc mở tổ hợp sơn mài. Tuy nhiên, cuộc sống cũng ba chìm bảy nổi, thành đạt cũng có, nhưng lên voi xuống chó cũng không thiếu.

Vì thế trước khi chết, ông lại ví mình như “cánh lục bình trôi”, bập bềnh trên sông nước Hậu Giang.

Ám chỉ ai thì không rõ. Đảng chăng?

Nhưng ông vốn người công giáo nên lại là cái cớ  sự tạo nghi ngờ cho Trần Bạch Đằng.

Phải chăng bọn họ như lục bình trôi, một thứ bèo băm, trộn thêm cho lợn ăn?

Ông qua đời vì bịnh gan, ngày 22/06/2007 và lễ nghi an táng được tổ chức long trọng tại nhà thờ Đức Bà Sàigòn và chôn cất ở Bình Dương.

*Dương Văn Ba

Khi còn là sinh viên Triết, Đalạt. Ba đã nổi tiếng bạo trợn khi cần tranh luận. Tuổi còn trẻ mà đã đùm đề mấy mặt con với một bà vợ gốc gác nhà quê hiền lành và chất phác. Vì thế túng thiếu với tiền học bổng vỏn vẹn 1500 đồng không nuôi đủ một vợ đùm đề với một bày con. Ba là khách hàng thường trực của cha Viện trưởng. Sau này, thôi chức viện trưởng, Cha Viện trưởng Nguyễn Văn Lập đã bảo quản lý xóa sạch nợ của sinh viên.

Sau 1975, tôi đi xe đạp ở góc đường Bùi Thị Xuân thì gặp Ba dừng xe lại trên một chiếc xe jeep Land Rover thì phải.

Tôi chẳng hiểu lý do nào Ba có cuộc sống sung túc như vậy trong khi tôi rơi xuống hàng chó ngựa?

Sau này được biết Ba khai thác gỗ bên Lào tại Vientia. Ông còn làm quản lý các chương trình Cimexcol-BPKP. Hình ảnh xôi động của đội ngũ Cimexcol, trong đó có thanh niên xung phong, anh công nhân, đến những anh trí thức Sài gòn cũ, sĩ quan ngụy đi học tập về, những kỹ sư bám đường, bám bãi, bám rừng, ủi đất, kéo gỗ, tìm phương án làm bật dậy một vùng hoang vu, nhưng lại đầy tiềm năng..

Tướng Chẹng Xây nhavong hết lời ca tụng sự hợp tác Lào-Việt.
( Xem thêm: Hồ Ngọc Nhuận: Dương Văn Ba với cách làm ăn mới trong bút ký Đời, trang 326-341).
Cũng theo Hồ Ngọc Nhuận:” Ngay chuyến ra quân thử lửa đầu tiên của Cimexcol đã thành công vang dội: đưa hàng trăm khối gỗ thông Lào vượt Trường sơn, vượt đèo Khe nưa vô cùng hiểm trở, xuất khẩu lần đầu tiên sang Nhật qua cảng Cửa Lò, thành phố Vinh. Chính phủ Lào đã gọi chiến dịch này là một chiến dịch thần tốc”.

( Xem Hồ Ngọc Nhuận. Hồi ký Đời, ibid, trang 308)

Vậy mà số phận Dương Văn Ba là số con rệp.

Dương Văn Ba bị bắt cuối năm 1987.

Án tù dành cho Dương Văn Ba là chung thân khổ sai.

Hồ Ngọc Nhuận đứng ra xin bảo lãnh với ông Tư Ánh (Trần Bạch Đằng). Ông này trả lời: “ Cậu bảo lãnh cái gì cũng được, nhưng cậu định bảo lãnh cả về chính trị nữa sao?.”.

Cuối cùng thì Dương Văn Ba chỉ bị tù 7 năm, 2 tháng thay vì chung thân.

Một tiết lộ quan trọng  của vụ án sai oan là người ta đã ghép tội Dương Văn Ba có liên hệ với Hoàng Cơ Minh, vì trong nhóm Hoàng cơ Minh có người tên Dương Văn Tư. Từ đó liên kết cho Dương Văn Tư là em ruột Dương Văn Ba. Khôi hài.

Nhận xét một cách không úp mở. Dương Văn Ba chỉ là nạn nhân của một cuộc đấu đá quyền lực giữ nội bộ đảng, nói huỵch tẹt ra giữa Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt, giữa Bắc và Nam như thường xảy ra sau này. Sau Võ Văn Kiệt lên làm thủ tướng mới giải cứu được Dương Văn Ba.

Dương Văn Ba cuối đời

Cuộc sống cuối đời kể là thanh bạch hầu như trắng tay. Cộng thêm bị tai biến mạch máu não. Điều ngạc nhiên không ít đối với tôi là trước khi qua đời khoảng ba năm, Dương Văn Ba đã rửa tội theo đạo công giáo!!! Lý do nào đã đưa đến quyết định cuối đời như vậy? Có lẽ chỉ trừ Dương Văn Ba có câu trả lời cũng như trường hợp Nguyên Sa Trần Bích Lan, nhà văn Duyên Anh và nhiều người khác.

Đám tang ông Giuse Dương Văn Ba 1942-2015, hưởng thọ 73 tuổi. Ông rửa tội và trở thành Ki tô hữu từ năm 2012. Ông được Chúa gọi về và đám tang tại giáo xứ Vườn Soài, sau đó được hỏa thiêu ở Bình Hưng Hòa.

Có vài vòng hoa của : Gia đình Tin Sáng, gia đình Cimexcol và gia đình Châu Tâm Luân.

Con trai trưởng kính báo: Dương Trần Thảo.

Một lời thay cho lời kết.

Bài viết như một bày tỏ chân thành cho thấy Đảng trên hết. Đảng là “the strong do what they can.The weak suffer what they must

(Sử gia Thucydides)

Còn tôi hiểu đơn giản hơn: Cái gì Đảng cũng làm được, trừ nói thật.

Nguyễn Văn Lục.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Đàn Chim Việt


“Con đường ít bị kẹt nhứt” – Lâm Lễ Trinh

Bài đọc suy ngẫm: “… Con đường ít bị kẹt nhứt” là câu nói của Anh hùng Trần văn Bá, bài viết của tác giả Lâm Lễ Trinh viết về anh, người từ bỏ cuộc sống nhàn nhã nơi xứ người, trở về lại Việt Nam tranh đấu. Nhân ngày giỗ anh Bá, ngày 8 tháng 1 hàng năm. Blog 16 trích đăng bài viết về tiểu sử, lý tưởng, hoài bảo của vị anh hùng, người làm sống lại khí phách của vụ Yên Bái năm 30.

Theo tác giả đây là vụ Yên Bái 1984

Trần Văn Bá sinh ngày 14.5.1945 tại Sa đéc, là thứ nam của cố dân biểu Trần Văn Văn và vừa tròn 17 tuổi khi thân phụ bị thảm sát ngày 7.12.1966. Ngày 2.1.1967, Bá qua Paris, đoàn tụ với anh là kỷ sư Trần Văn Tòng, ghi tên vào trường trung học Carnot và sau đó, Michelet để chuẩn bị lấy bằng Tú tài. Vì rớt hạch miệng tại trường Cao đẳng thương mãi HEC, Bá đổi qua môn kinh tế và thi đậu bằng cử nhân tại Đại học Assas (thiên hữu) năm 1971. Bá được tuyển dụng làm phụ tá giáo sư tại trường Đại học Nanterre, nổi tiếng thiên tả, mặc dù Bá hoạt động hăng hái trong phong trào sinh viên Việt chống cộng.
Bá không bô trai, hom hem gầy yếu, độc thân, ít nói. Sau cái vó “con cóc chết”, Bá cởi mở, chân tình, lạc quan, luôn luôn xung phong lảnh việc khó, giúp mọi người, bởi thế, thu hút cảm tình mọi giới. Vì mang một vết son lớn trên trán, Bá được bạn bè tặng cho biệt danh Bá Đầu Đỏ. Ăn bận xuềnh xòang, không thích tán gái, sống khắc khổ trong một căn gác nghèo tại Bourg-la-Reine, Bá thường la cà nơi tiệm cà-phê Châlet du Parc, tại Parc Montsouris để tán gẩu với bạn học cũ tại Lycée Yersin Đà lạt. Bá mê Adam Smith, thích xem phim xưa loại Le Pont de la Rivière Kwai, La Grande Illusion, Pour qui sonne le glas.Ngoài việc giảng huấn, Bá xông xáo hoạt động thanh niên, tổ chức trại hè Nối Vòng tay lớn 1973, và cổ động trí thức thành tài về nước phục vụ. Năm 1972, Bá đắc cử chủ tịch Tổng hội sinh viên VN, giữ chức này bốn khóa, cổ võ xây dựng côïng đồng, chống tuyên truyền của cộng sản Hànội…

Tháng 4.1975, Sàigòn thất thủ. Mất tòa Đại sứ, mất Câu lạc bộ, mất trụ sở, Ban chấp hành Tổng hội sinh viên rút về ngoại ô Paris, trên lầu 6 của một chung cư, đường Maréchal Joffre. Giới người Việt ở Pháp hoang mang tột độ.
Ngày 30 tháng tư, trong cảnh hỗn loạn, Bá (30 tuổi) giữ bình tỉnh, chạy đến Phòng lãnh sự VNCH, đại lộ de Villiers Paris. Ông đại sứ tự ý giải nhiệm. Tòa Đai sứ tuyên bố đóng cửa chính thức ngày thứ sáu. Nhưng Tổng hội sinh viên vẫn tồn tại, đưa lưng gánh vác một gia tài tủi nhục. Với một số bạn, Bá phụ đốt các hồ sơ, cấp phát chứng thơ cần thiết cho kiều bào, chuyển sách vở, phim ảnh vể những điểm mật của Tổng hội sinh viên. Bá tuyên bố: “Sinh viên tiếp tục đấu tranh. Hãy giúp chúng tôi!” Tới phút chót, lúc 6 giờ chiều, đại sứ Nguyễn Duy Quang trao cho Bá một ngân phiếu khiêm nhượng, tiền dư bạc thừa, quỷ đen, quỷ đỏ. Sáng thứ hai, khi đại diện của Tổng hội ra băng để lãnh thì trương mục của Sứ quán đã đóng từ tuần trước!
Bá không nản chí, luôn luôn đứng đầu mủi dùi. Dù thiếu phương tiện, dù bị hăm dọa từ mọi phía. Tổng hội sinh viên cắn răng hoạt động. Tết 1976, Bá và các bạn tổ chức biểu tình đả đảo Hanoi tại Salle de la Mutualité với khẩu hiệu “Ta Còn Sống Đây!”

Tổng hội xoay qua đón tiếp, giúp đở và ủy lạo – với tiền ít nhưng lòng nhiều! – các đợt sóng thuyền nhân đầu tiên. Bá chỉ huy, tổ chức (đôi khi…”xà ngầu”),và phát ngôn không hùng hồn nhưng chinh phục mọi người vì tân tụy hết mình, làm việc bất kể giờ giấc, cắt liên lạc với mẹ, anh và chị sống tại Paris.
Năm 1977, khi Phạm Văn Đồng viếng Paris, Bá và các bạn xuống đường, đánh lộn bằng gậy, gộc, cây, búa với phe Việt kiều cộng sản, Tây cộng và sinh viên ngoại quốc thiên cộng, đông hơn. Kết quả: cuộc triển lãm và hội thảo CS tại cư xá sinh viên quốc tế đường Jourdan phải hủy bỏ. Vì lý do an ninh.
Bá nói: “Người ta nói chúng tôi nhận tiền của CIA, bị Bắc Kinh giựt giây. Không ai biết tôi đang khám phá con người thật của tôi.” .
Rồi mẹ của Bá vượt đến Pháp trong số thuyền nhân. Bá mất việc làm, phải nhờ anh là kỷ sư Tòng phụ cấp. Tòng hỏi Bá: “ Đây có phải là lúc chống cự như vậy hay không? Cậu sẽ phải lội qua đại dương! !”.
Bá cười: “Đó là con đường ít bị kẹt nhứt. Khi Hồ, Giáp và Đồng bắt tay vào business của họ, họ chỉ là 4 hay 5 người. Lúc đó, đảng CS yếu xìu. dân nghèo đã khuyến khích họ ”
Đúng thế, Bá nghĩ rằng vấn đề dân chủ và thuyền nhân phải được giải quyết tại Việt Nam, bằng sự tranh đấu bên trong. Nếu người Việt không tự giúp, ai sẽ giúp họ?
Nói là làm. Lối 1979, Bá biệt tích tại Pháp. Tin đồn Bá bí mật bay qua Bangkok, vào Thái lan, Cam bốt, Việt Nam. Bá về bưng. Ngày 6.6.1982, Bá viết thơ từ nước Thái:
“ Tôi vẫn mạnh khoẻ. Rất khó, khó thật. Nhưng tôi thấy tôi mạch lạc với chính tôi và đoàn kết với đất nước tôi, nghèo nàn, khốn khổ, đói rách. Tương lai Việt Nam tùy thuộc nơi thành phần đối kháng bên trong, không phải nơi các chính trị gia lưu vong.”
Trong môt bức thơ khác, Bá than: “Điều khủng khiếp nhứt là sự cô đơn. Tìm đâu ra những giá trị nhân bản, tôn giáo, trí tuệ? Đừng nói những gì chúng tôi đang làm là vô bổ.”

Chiều 11.9.1984, có tin Trần Văn Bá bị bắt với (cựu phi công) Mai Văn Hạnh tại Minh Hải trong lúc công tác, trên chiếc xe hơi của một cán bộ cao cấp CS.
Vì bất cẩn hay vì bị gài bẩy?
Ngày 8.1.1985, tại Nhà Hát lớn Saigon, trụ sở của Hạ viện cũ thời quốc gia, Tòa án Nhân dân Tối cao – sắp xếp như một trò hề công lý, một vở tuồng cải lương – tuyên xử Bá và 20 can phạm khác thuộc Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải Phóng Việt Nam về tội “phản bội tổ quốc, chống phá cách mạng”.
Các “chiến lợi phẩm tịch thu được từ các kháng chiến quân” được triển lãm ở nơi đây.Nhà chức trách còn đặt nhiều máy phóng thanh tại công trường Lam Sơn để dân chúng – trên 1000 – theo dõi diễn tiến của vụ án từ bên ngoài.
Trong bản cáo trạng, công tố viện Trần Tế cho biết: ngay từ đầu tháng giêng 1981 cho đến tháng 9.1984, cơ quan an ninh Nhà nước đã phát hiện được “mười toán gián điệp” xâm nhập vào VN với sự hổ trợ của Trung quốc, Thái lan và Hoa kỳ. Tổng cộng 119 người, bị bắt giam hoặc giết chết.
Cá nhân Bá bị truy tố về tội đã chỉ huy, từ 1981 cho đến tháng 9.1984, nhiều nhóm kháng chiến xâm nhập VN, một chuyến đường bộ từ Thái lan về An giang với sự giúp đở của phe Pol Pốt và chín chuyến đường biển từ Thái đến mật cứ ở Minh Hải và Phú Khánh, đưa lậu vào VN hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược.
Báo Quân đội Nhân Dân số 8456 ghi: “Bá, người thấp, gầy, ra trước Tòa lúc 15 giờ ngày 14.12.1984, thường chỉ nói rất ngắn, rất nhanh”

Ông Lê Quốc Túy đáng lẽ cũng đi cùng toán thứ mười nhưng vì phải vào nhà thương ở Pháp vào giờ chót nên thoát nạn. Ngày 27.12.1984, ông họp báo tại khách sạn sang trọng Lutétia, Paris với tư cách ủy viên đối ngoại của Mặt trận nói trên. Trước báo chí ngoại quốc đông đảo, Túy – trên ngũ tuần – xác nhận lãnh tụ Mặt trận còn ở trong xứ và một số chiến sĩ của tổ chức đã bị bắt từ 1980. Một trận đánh lớn đã xảy ra tại Hà Tiên gây thiệt hại cho khoản 120 cán binh Việt cộng.Theo ông Túy, không có nước nào giúp. Súng đạn do chính cán bộ hồi chính CS cung cấp hay binh lính CS bán lại. Trong số 21 người bị xử, có hai cựu cán bộ cao cấp CS.
Đồng minh của Mặt trận là Kháng chiến Khờ-me. Mặt trận không có liên lạc với nhóm Hoàng Cơ Minh nhưng nếu cần, sẵn sàng giúp đở. Trả lời một câu hỏi, Túy cho biết Mặt trận, trong giai đoạn hiện tại, chưa chủ trương thiết lập những vùng giải phóng mà chỉ chú trọng xây dựng những cơ cấu nhỏ để từ đó, xâm nhập vào guồng máy và hàng ngũ bộ đội CS.Đáp một câu hỏi khác, Túy xác nhận số võ khí do CS trưng bày tại Tòa án là thực nhưng “chúng tôi còn nhiều hơn thế nữa.”
Điểm đáng lưu ý: Bản cáo trạng có ghi Mặt trận của Lê Quốc Túy được sự hậu thuẩn của cố Thủ tướng Trần Văn Hữu, nhóm Lai Hữu Tài, Lai Hữu Sang và nguyên nghị sĩ Hòa Hảo Lê Phước Sang (đọc bài Vụ án Yên Bái 84 của Trần Phổ Minh, trong tuyển tậpTrần Văn Bá) Trần Quốc Mạnh, một trong các luật sư (quốc doanh) được chỉ định để biện hộ thí cho nhóm bị can, làm cho các khán giả nực cười khi y tuyên bố:
“Các can phạm đã vi phạm luật. Không ai bào chửa cho họ được vì họ là những người tội đồ phản quốc”.
Tại phiên Tòa, Hồ Thái Bạch bị đàn áp bằng dùi cui khi lớn tiếng phản đối.
Huỳnh Vĩnh Sanh bị bịt miệng khi hô to “VN Cộng hòa muôn năm!”
Sau bốn ngày diễn trò bịp bợm, Tòa tuyên án

1) Tử hình: Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh, Huỳnh Vĩnh Sanh, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch
2) Chung thân : Trần Nguyên Hùng, Tô Văn Hườn, Hoàng Đình Mỹ.
3) từ 8 đến 20 năm tù: 13 kháng chiến quân còn lại.

Nhiều cuộc biểu tình xảy ra ở ngoại quốc để phản đối nhà cầm quyền cộng sản, Đức Giáo hoàng và Tổng thống và Thủ tướng Pháp cùng nhiều nhân vật chính trị và tôn giáo trên thế giới can thiệp.
Mười bốn hội đoàn thanh niên tại Đan Mạch, Đức, Thụy sĩ, Bỉ và Pháp xuống đường tố cáo Hànội.
Trần Văn Tòng, anh của Bá, phối hợp một Ủy ban quốc tế để tranh đấu cho các tội nhân. Lễ cầu an được tổ chức khắp nơi.
Dưới áp lực quốc tế, nhà cầm quyền Việt nam đổi án tử hình của hai can phạm có Pháp tịch là Mai Văn Hạnh và Huỳnh Vĩnh Sanh thành khổ sai chung thân.
Trần văn Bá (mặc dù mang sổ thông hành Pháp), Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch bị hành quyết tại khám đường Thủ Đức ngày 8.1.1985.
Một thông cáo vắn tắt của Nhà nước cho biết tin này.
Xác của các tử tội không được trả lại cho gia đình.
Trên 3.000 đồng bào VN biểu tình tuần hành tại Paris ngày 10.1.1985 từ Maison de la Radio, quận 16, đến trước sứ quán Việt cộng để tỏ sự căm phẩn với bạo quyền Hànội.
Hiện nay Lê Quốc Túy ở đâu ? hoạt động ra sao? Không ai được biết.
Vụ án Trần văn Bá và chiến hữu làm sống lại khí phách của vụ Yên Bái năm 30. 


Đây là vụ Yên Bái 1984.
Vụ đầu, kháng thực dân Pháp.
Vụ sau, chống độc tài cộng sản, ghê tởm hơn nhiều.
Liệt sĩ thời đại mới Trần Văn Bá đã gieo hạt giống tốt.
Bá không hy sinh vô bổ. Gương của Bá đáng ghi vào sử xanh.
Chống Pháp và Mỹ, Cộng sản đã thắng.
Chống dân tộc Việt, Cộng sản chắc chắn sẽ thảm bại phen này.

LÂM LỄ TRINH
Xuân Ất Dậu
Thủy Hoa Trang – California

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Blog Tiếng Quê Hương


“Đi Như Ri là Mất Nước” – Tú Gàn

 Nhà thờ Cha Tam, cuối đường Đồng Khánh, Chợ Lớn

Bài đọc suy gẫm: Câu nói định mệnh của Tổng thống Ngô Đình Diệm hay “Những Giờ Định Mệnh” là bài viết tổng hợp từ nhiều nguồn của tác giả Tú Gàn, báo “Sài Gòn Nhỏ” nhằm soi sáng thêm nhiều chi tiết về cuộc chính biến 1963 tại miền Nam Việt Nam. Hình ảnh chỉ có tính minh họa thêm cho bài đọc.

 Nhà của ông Mã Tuyên (trái), Hoa kiều.

Các tài liệu phát hiện gần đây cho thấy Hoa Kỳ đã hoạch định cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm kể từ năm 1961, khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối không cho Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam để mở rộng chiến tranh, và biến cố Phật Giáo vào tháng 5 năm 1963 được coi là một cơ hội tốt nhất để Hoa Kỳ thi hành quyết định của mình. Cuộc đảo chánh này đã được cơ quan CIA hoạch định rất chu đáo từng chi tiết, không để một kẻ hở nào. Ấy thế mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã thoát ra được khỏi Dinh Gia Long chỉ một thời gian ngắn sau khi cuộc đảo chánh bắt đầu. Nếu Tổng Thống Ngô Đình Diệm không chống lại các kề hoạch phản công và không quyết định ra trình diện, cuộc đảo chánh rất khó thành công. Trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã ra khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein, người điều khiển trực tiếp cuộc đảo chánh, đã hỏi: “Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt lại cho kỳ được, vì rất quan trọng”. Trong cuốn “Việt Nam 1954 – 1975, Những sự thật chưa hề nhắc tới”, hai tác giả Hoàng Lạc và Hà Mai Việt cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã rời khỏi Dinh Gia Long, nhóm đảo chánh hết sức lo sợ. Tướng Minh kéo Tướng Là tới và bảo: “Toa đừng có lo, Moi đã tiên liệu rồi, Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ đã chuẩn bị sẵn sàng hai Dakota C47 bên Liên Đoàn Vận Tải để chúng ta và gia đình đi khỏi nơi này nếu cần”. Sau khi cuộc đảo chánh kết thúc, Tòa Đại Sứ Mỹ và cơ quan CIA đã mở một cuộc điều tra để xem vì sơ hở nào mà hai ông Diệm và Nhu đã thoát ra được khỏi Dinh Gia Long. Ông Adams, Đệ Nhất Tham Vụ của Tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigon đã đích thân đến gặp ông Cao Xuân Vĩ, người có mặt trong Dinh Gia Long khi cuộc đảo chánh xẩy ra, để điều tra về vụ này. Ông Cao Xuân Vĩ cho biết lúc đó ông chỉ trả lời qua loa, nói rằng ông chỉ là kẻ thừa hành, không biết gì nhiều về chuyện này. Nay một trang sử đen tối của đất nước đã được lật qua, ông Cao Xuân Vĩ đã tiết lộ cho chúng tôi đầy đủ những chi tiết về cuộc ra đi khỏi Dinh Gia Long của ông Diệm và ông Nhu đã làm Tòa Đại Sứ Mỹ và cơ quan CIA hoảng sợ. Tuy nhiên, trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ trình bày những nét chính. Toàn bộ chi tiết của vụ này sẽ được chúng tôi trình bày đầy đủ trong bộ “Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam” Quyển II. Để độc giả dễ nắm vững vấn đề hơn, trước hết chúng tôi xin lược qua kế hoạch tổ chức đảo chánh của CIA, sau đó sẽ trình bày vể vụ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu rời Dinh Gia Long.

1.- CIA XEM GIÒ XEM CẲNG

Sau khi cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 kết thúc, nhiều người lầm tưởng rằng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim và Đỗ Mậu là những nhân vật chủ chốt cầm đầu cuộc đảo chánh đó. Phật Giáo đã cử phái đoàn đi quàng vòng hoa cho Tướng Tôn Thất Đính và Tướng Trần Văn Đôn. Những nghĩ như thế là lầm. Cuộc đảo chánh ngày 11.11.1960 do Đảng Đại Việt chủ mưu là một sự trắc nghiệm để CIA biết ai là những kẻ trung thành với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và tìm cách biến họ thành những tay sai của CIA trong việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Ngô Đình Nhu không ngờ được chuyện này. Khi cuộc đảo chánh này xẩy ra, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh đang giữ chức Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng ở Phủ Tổng Thống. Tướng Khánh đang ở nhà, nghe tin có đảo chánh, đã chạy vào Dinh Độc Lập. Thấy cửa đóng, ông leo qua hàng rào để vào. Tổng Thống Ngô Đình Diệm phong cho Tướng Khánh làm “Tư Lệnh Toàn Quyền” để thương lượng với phe đảo chánh. Tướng Nguyễn Khánh ra hỏi Trung Tá Vương Văn Đông, người đang chỉ huy cuộc đảo chánh: “Mấy anh muốn gì?”. Trung Tá Đông cho biết muốn thay đổi chính phủ, trao chính quyền lại cho quân đội. Tướng Khánh vô trình ông Diệm và ông Nhu rồi trở ra cho biết Tổng Thống đã đồng ý và mời các tướng lãnh đến họp ở Bộ Ngoại Giao để bàn chuyện thay đổi chính phủ. Trong khi đó Tướng Khánh lại xúi ông Diệm kêu gọi Đại Tá Trần Thiện Khiêm đem Sư Đoàn 7 ở Mỹ Tho về giải cứu thủ đô. Nhờ sự câu giờ của Tướng Nguyễn Khánh, Đại Tá Trần Thiện Khiêm đã đem quân về giải vây Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Chánh Thi, Trung Tá Vương Văn Đông và một số người tham gia đảo chánh đã phải bỏ chạy qua Cam-bốt. Những người liên hệ khác kẹt lại đã bị bắt. Sau vụ này, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh được thăng lên Trung Tướng và cho giữ chức Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, rồi đi làm Tư Lệnh Quân Đoàn II, còn Đại Tá Trần Thiện Khiêm được thăng lên Thiếu Tướng, cho giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Vợ Tướng Khiêm được bầu làm Dân Biểu Quốc Hội, luôn đi cạnh bà Ngô Đình Nhu. Biết ông Diệm và ông Nhu tin tưởng Tướng Khánh và Tướng Khiêm, CIA móc nối ngay. Người thứ ba được CIA chú ý là Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, vì đây là một sĩ quan có khả năng đang được ông Ngô Đình Nhu đánh giá cao và xây dựng để cho giữ những chức vụ quan trọng sau này. Đại Tá Thiệu lại đã theo Đạo Công Giáo khi lấy một bà sơ người Mỹ Tho xuất dòng, nên càng được ông Nhu tin cậy hơn. Năm 1957, Đại Tá Thiệu được cho đi học một khóa chỉ huy và tham mưu tại Command and General Staff College ở Ft. Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Năm 1959 được đi tu nghiệp tại Okinawa, Nhật Bản, và năm 1960 trở lại Hoa Kỳ học về võ khí mới ở Fort Bliss. Đây là cơ hội tốt để CIA móc nối. Cuối năm 1960 Đại Tá Thiệu trở về Việt Nam, được Ông Ngô Đình Nhu tạm thời cho làm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân do Tướng Dương Văn Minh đang làm Tư Lệnh. Đây là một tổ chức mới được lập ra để cho Tướng Minh “ngồi chơi xơi nước”, vì Đoàn Công Tác Đặc Biệt vừa khám phá ra Tướng Minh đã liên lạc và chứa chấp hai tên tình báo Việt Cộng trong đó có người em là Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, một cán bộ cao cấp do Hà Nội gởi vào liên lạc. Ông Diệm không muốn đưa vụ tai tiếng này ra ánh sáng nên chỉ tìm cách cô lập Dương Văn Minh mà thôi. Năm 1962, có lẽ do sự sắp xếp của CIA, Đại Tá Thiệu đã xin gia nhập Đảng Cần Lao để được ông Nhu tin tưởng hơn. Trong kế hoạch xây dựng Ấp Chiến Lược để cô lập Việt Cộng, Đại Tá Thiệu đã có nhiều ý kiến rất xuất sắc nên được ông Nhu khen ngợi. Khi Tổng Thống Diệm quyết định giải tán Bộ Tư Lệnh Hành Quân và đưa Tướng Minh về làm “Cố Vấn Quân Sự” của Tổng Thống, một chức vụ hữu danh vô thực, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu được cử đi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh ở Huế. Đầu năm 1963, khi thấy tình hình lộn xộn, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đưa Đại Tá Thiệu về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 đóng ở Biên Hòa. Đại Tá Thiệu được ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu trao nhiệm vụ giải cứu thủ đô khi có đảo chánh. Ông Nhu không hề hay biết Đại Tá Thiệu là người của CIA. Tướng Đôn không được cả ông Diệm lẫn ông Nhu tin dùng lắm vì cho rằng “ăn chơi quá”. Những người thân cận với ông Ngô Đình Cẩn đã cho biết vào năm 1962, Tướng Đôn đã ra Huế và vào xin ông Ngô Đình Cẩn cho theo đạo Công Giáo. Ông Cẩn nói rằng việc theo đạo là việc của Giáo Hội Công Giáo. Nếu muốn theo đạo, cứ việc tới gặp Linh mục Đỗ Bá Ái, tuyên úy quân đội. Sau khi nói chuyện với Tướng Đôn, Linh mục Đỗ Bá Ái đã phán ngay: “Anh này nhiều vợ quá, không theo đạo được!” Tướng Đôn cũng không được CIA tin dùng vì quá thân Pháp. Nhưng lúc đó Tướng Đôn đang giữ chức Tư Lệnh Lục Quân, nên CIA phải dùng. CIA dự trù khi sắp làm đảo chánh, họ xúi Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng, đi Hoa Kỳ chửa bệnh mấy tháng, thế nào Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng sẽ cử Tướng Đôn làm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, vì không còn ai hơn. Mọi việc đã xẩy ra đúng như vậy. Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Tướng Trần Văn Đôn đã mô tả ông ta như là sếp sòng trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963, mọi sự đều do ông ta hoạch định và chỉ đạo. Nhưng sự thật không phải như vậy. Tài liệu cho thấy, trong các quyết định quan trọng, Tướng Đôn không hề được tham dự, như quyết định giết ông Diệm chẳng hạn. Quyết định này chỉ có Lucien Conein, Trần Thiện Khiêm và Dương Văn Minh biết mà thôi.

2.- CIA LẬP KẾ HOẠCH ĐẢO CHÁNH VÀ GIÀNH QUYỀN LÃNH ĐẠO MIỀN NAM

Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Tướng Nguyễn Khánh đã tiết lộ rằng khi Hoa Kỳ quyết định lật đổ ông Diệm, người đầu tiên được Lucien Conein bàn hỏi không phải là Tướng Dương Văn Minh hay Tướng Trần Văn Đôn, mà là Tướng Trần Thiện Khiêm. Lucien Conein, Tướng Khiêm và Tướng Nguyễn Khánh đã họp với ông Al Spera, cố vấn Bộ Tổng Tham Mưu, để bàn định việc này. Sau khi bốn người bàn định xong những việc phải làm, Lucien Conein mới tiếp xúc với Tướng Trần Văn Đôn để yêu cầu Tướng Đôn phối hợp với Tướng Khiêm lập kế hoạch đảo chánh. Khi kế hoạch được Cabot Lodge duyệt y mới giao cho Tướng Dương Văn Minh thực hiện dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Lucien Conein và Tướng Khiêm. Lực lượng chính dùng để đảo chánh là Sư Đoàn 5 của Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu ở Biên Hòa. Các tướng Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân và Tôn Thất Đính chỉ là kẻ thừa hành. Đại Tá Đỗ Mậu chỉ được dùng để sai vặt. Ngoài ba nhân vật chủ chốt là Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu, CIA còn móc nối được với hầu hết những nhân vật khác được ông Diệm và ông Nhu tin cậy như Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, ông Trần Quốc Bữu, Đại Tá Phạm Ngọc Thảo, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, v.v. Ba nhân vật then chốt nói trên cũng được Hoa Kỳ dùng để điều hành miền Nam Việt Nam sau khi lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim… chỉ là những con bài thí. CIA đã tạo ra cuộc chỉnh lý ngày 30.1.1964 để loại các con bài thí này, đưa những người đã được họ tuyển chọn lên nắm chính quyền để thực hiện kế hoạch đưa quân Mỹ vào Nam Việt Nam, mở rộng chiến tranh để thực hiện các cuộc đấu thầu quốc phòng. Lúc đầu, Hoa Kỳ định đặt Tướng Khánh làm Quốc Trưởng còn Tướng Khiêm làm Thủ Tướng. Nhưng Tướng Khánh cho rằng làm Quốc Trưởng chỉ là làm bù nhìn, nên tìm cách đẩy Tướng Khiêm ra ngoại quốc để kiêm luôn chức Thủ Tướng, tình hình rối loại mới xẩy ra. CIA dùng Phạm Ngọc Thảo làm đảo chánh để loại Tướng Khánh rồi đưa Nguyễn Văn Thiệu lên thay. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng chỉ là một con bài thí, được Cabot Lodge dùng để dẹp tan phong trào Phật Giáo mà CIA đã dựng lên để lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, nay đã trở thành kiêu binh. Về sau, phong trào Phật Giáo đã được dùng như một lực lượng phản chiến để đưa quân Mỹ ra khỏi Việt Nam. Khi tình hình bắt đầu ổn định, Tướng Khiêm được đưa về làm Bộ Trưởng Nội Vụ rồi từ đó lên làm Thủ Tướng muôn năm. Nhìn lui nhìn tới, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, miền Nam luôn được đặt dưới quyền lãnh đạo của các nhân viên tình báo Mỹ: Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm.

3.- TÌNH HÌNH TRONG DINH GIA LONG KHI CUỘC ĐẢO CHÁNH BẮT ĐẦU

Sáng 1.11.1963, để cầm chân Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho các tướng hội họp để tổ chức đảo chánh tại Bộ Tổng Tham Mưu, Đại Sứ Cabot Lodge đã dẫn Đô Đốc Harry D. Felt, Tư Lệnh Thái Bình Dương, vào thăm ông Diệm. Sau cuộc viếng thăm, ông Diệm có mời ông Cabot Lodge ở lại để nói chuyện thêm. Trong khi nói chuyện, ông Diệm có hỏi ông Lodge rằng nghe tin sắp có đảo chánh, có đúng như vậy không. Ông Lodge nói rằng ông không hề nghe tin đó, nếu có nghe ông sẽ báo tin cho Tổng Thống biết ngay, và quả quyết Hoa Kỳ không đồng ý một cuộc đảo chánh như vậy. Trong khi Đại Sứ Cabot Lodge gặp ông Diệm, CIA cho Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5, vào gặp và nói chuyện với ông Ngô Đình Nhu để cầm chân ông này. Đại Tá Thiệu đã hỏi ông Nhu rằng có nghe tin gì về đảo chánh không. Ông Nhu cho biết không có tin gì mới cả. Chiếu 31.10.1963, theo lệnh của Lucien Conein, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu đã điều động 2 trung đoàn của Sư Đoàn 5, một tiểu đoàn pháo binh và một chi đoàn thiết giáp, nói là đi hành quân ở Phước Tuy, nhưng khi đến ngả ba xa lộ Biên Hòa và quốc lộ 15 đi Vũng Tàu, các đơn vị này được lệnh dừng ở đó đợi lệnh. Sáng 1.11.1963, Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên, cháu của Đỗ Mậu, Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, ra lệnh hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến là Tiểu Đoàn 1 của Đại Úy Trần Văn Nhựt và Tiểu Đoàn 4 của Đại Úy Lê Hằng Minh đi hành quân ở núi Thị Vãi, Ba Rịa, rồi bất thần đưa về Saigon tiến chiếm Tổng Nha Cảnh Sát, Bộ Nội Vụ, Nha Truyền Tin và đài phát thanh Sài Gòn. Còn Tướng Mai Hữu Xuân đưa tân binh quân dịch ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung về chận các ngả vào Sài Gòn. Đến 1 giờ trưa, Đại Tá Thiệu bất thần ra lệnh cho cả hai trung đoàn di chuyển về Saigon, một trung đoàn đóng ở Phú Lâm, còn một trung đoàn đóng ở ngả tư Hàng Xanh để ngăn chận quân cứu viện từ ngoài tiến về giải cứu Sài Gòn. Bản doanh của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 5 được đặt tại Trường Đại Học Sư Phạm ở đường Cộng Hòa. Lúc 1 giờ 30, tiếng súng bắt đầu nổ ran tại một vài nơi ở Sài Gòn. Ông Cao Xuân Vĩ, Tổng Giám Đốc Thanh Niên, đã gọi cho Ngô Đình Nhu tại Dinh Gia Long để hỏi thăm tin tức. Ông Nhu bảo ông Vĩ đi quanh một vòng xem tình hình như thế nào. Ông Vĩ lái xe đi một vòng rồi vào báo tin cho ông Nhu biết tình hình vẫn yên tỉnh. Ông Nhu hỏi: “Chúng nó lấy lực lượng nào để đảo chánh?” Ông cho biết sáng nay Đại Tá Thiệu mới đến đây nói chuyện và báo cáo tình hình vẫn yên tỉnh. Trung Tá Lê Như Hùng, Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ tại Phủ Tổng Thống đặc trách liên lạc với quân đội, được gọi đến Dinh Gia Long để liên lạc với những đơn vị có nhiệm vụ bảo vệ Sài Gòn. Trung Tá Hùng đã liên lạc ngay với Tướng Trần Thiện Khiêm ở Tổng Tham Mưu và Tướng Tôn Thất Đính ở Quân Đoàn III, hai nơi này cho biết Tướng Khiêm và Tướng Đính đang họp ở Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tá Hùng gọi cho Đại Tá Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5, ở đây cho biết Đại Tá Thiệu đang đi hành quân. Trung Tá Hùng quay qua gọi cho Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân, nhưng không ai trả lời. Ông Ngô Đình Nhu không hề biết Đại Tá Quyền đã bị lực lượng đảo chánh giết chết. Trung Tá Hùng liền gọi Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Ở đây trả lời Đại Tá Tung đi họp ở Tổng Tham Mưu. Ông Nhu cũng không biết Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đem Đại Tá Tung ra sau Nghĩa Trang Bắc Việt thủ tiêu rồi. 

Ảnh Đại tá Lê Quang Tung (trái), tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và Đại tá Hồ Tấn quyền, tư lệnh Hải quân. Cả hai bị quân đảo chánh sát hại ngay từ đầu.

Trong khi đó, ông Cao Xuân Vĩ gọi cho Tổng Nha Cảnh Sát nhưng không liên lạc được, vì nơi đây đã bị Thủy Quân Lục Chiến chiếm. Ông liền liên lạc với Trung Tá Phước, Phó Đô Trưởng Nội An. Trung Tá Phước cho biết tình hình vẫn yên tỉnh. Ông đã gọi ông Bửu Thọ, Tổng Giám Đốc Đài Phát Thanh Sài Gòn, và dặn nếu quân đảo chánh xâm nhập, phải cho phá đài phát thanh ngay. Trước tình trạng này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã điện thoại cho Đại Sứ Cabot Lodge cho biết ông vừa nghe tin có đảo chánh và xin ông Đại Sứ cho biết tin đó có đúng không. Đại Sứ Lodge trả lời rằng xin Tổng Thống cứ yên tâm, không hề có chuyện đó. Nếu có tin gì, ông sẽ cho Tổng Thống biết ngay. Lúc 2 giờ 30 chiều, đài phát thanh bổng im lặng. Ông Vĩ liền gọi đến đài phát thanh, nhưng không ai trả lời. Có lẽ lúc đó Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống đang giao tranh với Thủy Quân Lục Chiến, vì đang nghe tiếng súng ở phía đó. Tổng Thống Ngô Đình Diệm liền gọi lại cho Đại Sứ Lodge lần thứ hai. Đại Sứ Lodge cầm điện thoại lên ngay. Tổng Thống Diệm cho biết ông đã nghe tiếng súng, yêu cầu ông Đại Sứ cho biết tin tức. Ông Lodge quả quyết không có chuyện gì xẩy ra cả. Tổng Thống Diệm yêu cầu ông Lodge liên lạc với cơ quan MACV xem sao. Ông Lodge vẫn quả quyết không có chuyện gì xẩy ra. Lúc 4 giờ 45, đài phát thanh Sài Gòn bắt đầu loan tin Quân Đội đã đứng lên lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Hội Đồng Tướng Lãnh yêu cầu ông Diệm từ chức và cùng ông Nhu rời khỏi Việt Nam. Khi biết chắc một số tướng lãnh đã đứng ra làm đảo chánh, ông Nhu bảo Trung Tá Hùng gọi cho Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, xem tình hình ra sao. Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mữu Trưởng Liên Binh Phòng Vệ cầm điện thoại trả lời và cho biết Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Liên Binh, đã đi họp tại Bộ Tổng Tham Mưu nhưng không thấy về. Về tình hình, Thiếu Tá Duệ trình rằng Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm đài phát thanh và bắt đầu bắn vào thành Cộng Hòa. Trung Tá Hùng yêu cầu Thiếu Tá Duệ cho biết tình hình của Liên Binh Phòng Vệ, Thiếu Tá Duệ cho biết Liên Binh có khoảng 2 tiểu đoàn gồm khoảng 1500 quân, chia ra thành 6 đại đội, đang đóng rãi rác ở Sở Thú, thành Cộng Hòa, Dinh Độc Lập và vườn Tao Đàn. Ngoài ra, Liên Binh còn có một Liên Chi Đoàn Thiết Giáp, một Đại Đội Phòng Không và một Đại Đội Truyền Tin. Ông Nhu ra lệnh cho Thiếu Tá Duệ thay Trung Tá Khôi chỉ huy Liên Binh. Trung Tá Hùng gọi điện thoại cho Thiếu Tá Phạm Văn Phú, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 77 thuộc Sở Liên Lạc và hỏi có quân không. Thiếu Tá Phú cho biết không còn đại đội nào cả, vì trong những tuần qua, Bộ Tổng Tham Mưu đã ra lệnh giao các đại đội của Liên Đoàn cho Tướng Tôn Thất Đính xử dụng vào các cuộc hành quân. Khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Ngô Đình Nhu và ông Cao Xuân Vĩ đi xuống hầm trú ẩn ở dưới Dinh Gia Long, Thiếu Tá Duệ gọi đến và yêu cầu cho mở cuộc hành quân tiến chiếm Bộ Tổng Tham Mưu. Sau đó, Thiếu Tá Phạm Văn Phú gọi vào cho biết có một đại đội biệt kích mới đi hành quân trở về. Anh Đại Đội Trưởng đề nghị cho mở cuộc hành quân vào Bộ Tổng Tham Mưu xúc hết các tướng đảo chánh. Theo kế hoạch của anh, một đơn vị của Liên Binh Phòng Vệ sẽ đánh nghi binh lên mặt tiền Bộ Tổng Tham Mưu, còn anh sẽ dẫn đại đội của anh đánh bọc hậu phía sau, tiến vào bắt hết các tướng đảo chánh. Ông Cao Xuân Vĩ trình các đề nghị này lên Tổng Thống Diệm thì Tổng Thống Diệm quát tháo om sòm và nói: “Tôi là Tổng Tư Lệnh Quân Đội, tôi không thể ra lệnh cho quân đội đánh quân đội được. Hãy để quân đội đi đánh Việt Cộng”. Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối dùng quân sự để chống đảo chánh, ông Cao Xuân Vĩ nghĩ rằng có thể dùng lực lượng quần chúng để chống đảo chánh. Ông liền gọi cho ông Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công, một đảng viên Đảng Cần Lao, nhưng không ai trả lời. Ông Vĩ lại gọi cho ông Lê Mỹ, người lãnh đạo các công nhân khuân vác ở thương cảng Sài Gòn, nhưng cũng không gặp. Sau này ông mới biết ông Trần Quốc Bửu đã hợp tác với CIA. Khoảng 5 giời chiều, Tổng Thống Ngô Đình Diệm gọi điện thoại cho ông Cabot Lodge lần thứ ba, cho biết một số tướng lãnh phản loạn đang họp ở Bộ Tổng Tham Mưu để làm đảo chánh lật đổ chính phủ. Ông yêu cầu ông Lodge cho biết quan điểm của chính phủ Hoa Kỳ về cuộc đảo chánh này. Ông Lodge nói rằng ông cũng có nghe tiếng súng nổ, nhưng không biết hết sự kiện. Vã lại, lúc này là 4 giờ sáng ở Hoa Thịnh Đốn, chính phủ Mỹ không thể có một quan điểm. Ông Vĩ điện thoại cho Trung Tá Phước ở Tòa Đô Chánh, yêu cầu dời bộ tham mưu tiền phương vào trung tâm xã hội ở Đại Thế Giới, Chợ Lớn. Sau đó ông cùng với ông Ngô Đình Nhu tìm một giải pháp. Lúc đầu, ông Vĩ đề nghị để Tổng Thống Diệm lại trong Dinh, còn ông và ông Nhu ra khỏi Dinh để có thể giải cứu cho nhau. Nhưng Tổng Thống Diệm bác ngay. Ông Diệm sợ ông Nhu khi rời khỏi ông sẽ bị giết. Ông Nhu đề nghị cả hai cùng đi. Ông Diệm liền hỏi: “Đi mô?” Trước hết, ông Nhu đề nghị đến ẩn náu tại Tòa Khâm Sứ của Tòa Thánh Vatican ở đường Hai Bà Trưng. Ông Diệm trả lời không được. Theo ông, không nên gây khó khăn cho Tòa Thánh. Ông Nhu đề nghị tới Tòa Đại Sứ Úc. Ông Diệm bảo đừng tin vào những Tòa Đại Sứ Tây Phương. Ông Nhu đề nghị đến Tòa Đại Sứ Nhật, ông Diệm bảo Nhật không có tốt với mình đâu, ông đã có quá nhiều kinh nghiệm với Nhật rồi. Cuối cùng, ông Nhu đề nghị đến Tòa Đại Sứ Đài Loan. Ông Diệm cho rằng mình mới ban hành nhiều biện pháp đối với người Hoa, bây giờ đến đó coi sao được. Nói tóm lại, ông Diệm không muốn rời Dinh Gia Long nên tìm cách bác bỏ các đề nghị của ông Nhu. Ông Cao Xuân Vĩ đề nghị với ông Nhu hoặc đi lên Cao Nguyên với Tướng Nguyễn Khánh, hoặc đi xuống miền Tây với Đại Tá Bùi Dinh. Ông Nhu bảo ông Vĩ đi xem tình hình xem như thế nào. Ông Vĩ lái xe đi một vòng thì thấy không thể đi đường bộ được, vì quân đảo chánh đã chận ở Phú Lâm và cầu xa lộ Biên Hòa rối. Ông Vĩ nghĩ rằng có thể đi bằng ghe xuống miền Tây, nhưng trong khi chờ đợi tìm ghe để đi, phải rời khỏi Dinh Gia Long ngay lập tức. Ông Nhu vào trình với ông Diệm rằng phải ra khỏi Dinh Gia Long, vì tình thế rất nguy hiểm. Ông Diệm nói rằng làm Tổng Thống không thể đi trốn được. Ông Nhu giải thích rằng mình không đi trốn, đây chỉ là “dịch cư” để bảo đảm an ninh rồi trở về lại mà thôi. Ông Nhu thuyết phục ông Diệm rằng trên nguyên tắc, một cuộc đảo chánh nếu trong 48 giờ không thành công, sẽ thất bại. Mình chỉ rời khỏi Dinh một thời gian thôi. Ông Diệm làm thinh. Bổng ông Cabot Lodge gọi đến nói rằng ông lo cho sự an toàn của Tổng Thống. Ông nói nếu ông có thể làm gì cho sự an toàn của Tổng Thống, xin cứ gọi ông. Ông Diệm liền trả lời: “Tôi đang cố gắng tái lập trật tự”. Như vậy, khi ở Dinh Gia Long, Tổng Thống Diệm đã gọi ông Cabot Lodge tất cả ba lần, và ông Lodge đã gọi cho Tổng Thống Diệm một lần. Nhưng trong hồ sơ, ông Lodge nói ông Diệm chỉ gọi cho ông một lần mà thôi. Trong cuốn “Lodge in Vietnam” bà Blair có cho biết khi cuộc đảo chánh bắt đầu, ông Lodge đã ra đứng ngoài hành lang điều khiển, để những mệnh lệnh của ông không bị ghi băng!

4.- ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC!

Sau khi nói chuyện với ông Cabot Lodge, ông Diệm cho gọi ông Nhu vào và bảo: “Đi thì đi!” Chuyện xẩy ra quá bất ngờ nên ông Cao Xuân Vĩ trở tay không kịp. Ông liền gọi điện thoại cho Trung Tá Phước bảo đem đến Tòa Đô Chánh ngay một chiếc xe. Trung Tá Phước tưởng ông Vĩ cần xe chờ đồ nên cho Đại Úy Hưng lái một chiếc xe fourgonnette (xe chở hàng nhỏ – truck) đến. Ông Vĩ bảo tắt máy xe rồi cùng Đại Úy Hưng đẩy băng qua đường Pasteur, vào cửa bên hông của Dinh Gia Long. Khi xe đến, ông Vĩ vào báo cho ông Diệm và ông Nhu biết. Ông Diệm bảo Đại Úy Bằng lên lấy chiếc cặp cho ông. Khi ra xe, ông Diệm lầu bầu: “ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC!”. Không ngờ lời nói đó đã trở thành một lời tiên tri! Vì xe fourgonnette là loại xe chở hàng nên ở thùng sau không có ghế ngồi, nhưng hai ông cũng bước lên và ngồi giữa sàn xe. Đại Úy Bằng muốn đi theo, nhưng Đại Úy Đỗ Thọ, cháu Đỗ Mậu, tình nguyện đi. Ông Cao Xuân Vĩ vội chạy vào Dinh lấy cái nệm cho hai ông ngồi, nhưng khi trở ra thì xe đã chạy mất rồi. Lúc đó là khoảng 7 giờ 30 tối. Xe ra ngả đường Pasteur, xuống đường Lê Lợi, qua đường Trần Hưng Đạo, đến Đồng Khánh rồi vào khu Đại Thế Giới, nơi đặt bộ tư lệnh tiền phương của Trung Tá Phước. 

 Ông Mã Tuyên, ảnh dưới chụp năm 1993.

Ông Cao Xuân Vĩ gọi cho ông Mã Tuyên, một Tổng Bang Trưởng của người Hoa và là Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa ở Chợ Lớn, nhờ tìm nơi tạm trú cho Tổng Thống. Ông Mã Tuyên nhận lời ngay, mặc dầu ông chưa bao giờ gặp mặt ông Diệm và ông Nhu. Không ai biết Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã rời Dinh Gia Long, ngoài Đại Úy Bằng, nên mọi người cứ tưởng ông Diệm và ông Nhu vẫn còn ở trong Dinh. Ông Cao Xuân Vĩ gọi ông Lê Mỹ ở thương cảng mua thực phẩm tiếp tế cho các binh sĩ trong Dinh trước khi ra đi. Lúc đó, lực lượng trong Dinh có một Đại Đội An Ninh Phủ Tổng Thống do Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc chỉ huy. Bên ngoài, Liên Binh Phòng Vệ do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mưu Trưởng, và Thiếu Tá Phan Văn Hưởng, Tham Mưu Phó chỉ huy. Sau này Tướng Nguyễn Văn Thiệu nói rằng nếu ông Diệm không trình diện, phải có ít nhất 3 trung đoàn mới có thể chiếm được Dinh Gia Long. Thu xếp xong công việc, ông Cao Xuân Vĩ vào Đại Thế Giới thì ông Diệm và ông Nhu đã vào nhà Mã Tuyên rồi.

5.- TỰ QUYẾT ĐỊNH SỐ MỆNH

Ông Cao Xuân Vĩ đến nhà Mã Tuyên thì ông Mã Tuyên cho biết Tổng Thống và ông Cố Vấn đang ở trên lầu. Ông Cao Xuân Vĩ nói với ông Mã Tuyên rằng không thể ở đây lâu được vì thế nào cũng sẽ bị phát hiện. Phải tìm một nơi nào an toàn hơn. Ông Mã Tuyên liên lạc với những người Hoa rồi cho biết đã tìm được hai kho hàng trống ở Bến Bình Đông và đang cho dọn dẹp sạch sẽ. Ông Cao Xuân Vĩ dự trù vào lúc 6 giờ sáng, khi giờ giới nghiêm chấm dứt, sẽ cho xe đưa Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu đến đó. Sau này ông Mã Tuyên cho biết, suốt cả đêm hai ông không ngủ, cứ gọi điện thoại cho hết chỗ này đến chỗ kia, và bàn định công việc. Đúng 6 giờ sáng, khi vừa hết giờ giới nghiêm, ông Cao Xuân Vĩ đến nhà Mã Tuyên thì ông Mã Tuyên cho biết Tổng Thống và Cố Vấn đã đi vào xem lễ ở nhà thờ Cha Tam, cuối đường Đồng Khánh. Sau này người ta được biết ông Diệm nhất định không chịu đi theo kế hoạch của ông Cao Xuân Vĩ. Ông nói rằng “Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (Thà chết chứ không chịu nhục). Theo ông, “Tổng Thống không có đi trồn”! Ông ra lệnh cho Liên Binh Phòng Vệ buông súng rồi gọi điện thoại báo tin cho ông Cabot Lodge biết ông bằng lòng từ chức và đi ra ngoại quốc. Trước khi tin cho các tướng đảo chánh biết, ông đến nhà thờ để dự lễ và cầu nguyện. Ông Diệm không ngờ quyết định này là quyết định chấm dứt cuộc đời của ông. Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Tướng Trần Văn Đôn cho biết, Lucien Conein, người điều khiển trực tiếp cuộc đảo chánh, đã nói với các tướng đảo chánh bằng tiến Pháp: “On ne fait pas d’omelette sans casser les oeufs.” Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng. (trang 228) Quyết định này của ông Diệm cũng là quyết định về số phận của miền Nam Việt Nam. Sau khi ông Diệm bị lật đổ, người Mỹ đã nắm chủ quyền tại miền Nam Việt Nam và dùng miền Nam làm công cụ phục vụ quyền lợi của tư bản Mỹ. Trong tác phẩm “President Kennedy, Profile of Power”, sử gia Richard Reeves đã ghi lại như sau: “Người Mỹ, vì các mục tiêu thực tế, đã cai quản đất nước. Các tướng lãnh Việt Nam cười trước các máy quay phim, nhưng lo lắng và chờ đợi tiền và chỉ thị từ Washington, thủ đô mới của miền Nam Việt Nam.” (trang 651) Cũng có nhận định tương tự, trong cuốn “The Vietnam War, 1945 – 1990”, Marilin B. Young nói rằng ông Diệm đã làm hỏng chính sách của Hoa Kỳ về phương diện chiến thuật nên được Hoa Kỳ thay thế bằng một nhóm tướng lãnh. Khác với ông Diệm, họ lệ thuộc vào Hoa Kỳ và vì thế sẵn sàng theo những lời cố vấn. Những nhân viên tình báo của CIA như Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm và Đặng Văn Quang, được Hoa Kỳ đưa ra lãnh đạo miền Nam, đã để mất chủ quyền quốc gia, đưa miền Nam đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tú Gàn

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Trang Ong Vò Vẽ


“Họ đã nói gì?” – Nguyễn Duy Thành

Bài đọc suy gẫm: “Họ đã nói gì?” hay “Ngô Đình Nhu ngủ trong giấc mộng Hòa bình” là lập luận của tác giả Nguyễn Duy Thành đối với thắc mắc chung của các sử gia quan tâm về việc Ông Ngô Đình Nhu gặp Phạm Hùng, lãnh tụ cộng sản tại Tánh Linh, Bình Tuy. Hình ảnh chỉ là minh họa thêm cho bài đọc.

Ngô Đình Nhu ngủ trong giấc mộng Hòa Bình ( Nguyễn Duy Thành)

Xin Kính trọng gởi bài viết này đến Bà quả phụ: Trần Thị Lệ Xuân ( Ảnh bên). Nguyễn Duy Thành

Trên: báo VNCH đăng tin việt cộng … bênh tàu cộng vụ chúng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam và người dân Hà Nội biểu tình chống tàu cộng sau này (ảnh dưới)

Nếu cổ sử Trung Hoa từng tự hào về quân sư Khổng Minh Gia Cát Lượng, thì lịch sử Cận đại Việt Nam cũng nên hãnh diện có một: NGÔ ĐÌNH NHU. Nếu thế giới vỗ tay khi Tổng Thống Obama được giải Nobel Hòa Bình, thì người Việt cũng nên khâm phục ý tưởng hòa bình của Cố vấn Ngô Đình Nhu. Đúng vậy, nếu sưu tra và tham khảo hết các sử liệu về nền Đệ Nhất Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành lập và lãnh đạo, thì vai trò của Cố vấn Ngô Đình Nhu đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự nghiệp Chống Cộng để bảo vệ Miền Nam Việt Nam. Ngoài Bộ thuyết Cần Lao Nhân Vị, và sự thành công của Quốc sách Ấp Chiến Lược do ông soạn thảo đã tạo sự điêu đứng cho đối phương, thì có một sự kiện mà mãi cho đến ngày nay lịch sử vẫn chưa làm sáng tỏ được. Đó là việc ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đích thân đi gặp Phạm Hùng, vị đại diện của Hồ Chí Minh để tìm một thỏa hiệp cho cả hai phe.

Rất tiếc và rất tiếc! Đã gần 50 năm trôi qua nhưng tư liệu và chứng cứ về sự kiện này vẫn không được khám phá gì nhiều hơn! Ngoài một vài chi tiết mang tính trùng lập được viết đi rồi ghi lại qua hàng ngàn cuốn sách viết về cuộc binh biến 1-11-1963. Ngay cả Luận án viết chưa xong của cố cựu Trung Tá Nguyễn Văn Châu, từng là Quân ủy của Đảng Cần Lao có một tựa đề khá gây chú ý là: NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ NỖ LỰC HÒA BÌNH DANG DỞ, do Dịch giả Nguyễn Vi Khanh thực hiện vẫn không soi rọi thêm một bằng chứng nào khác, về cuộc chuyện trò bí mật của hai đại diện thuộc hai phe Nam-Bắc tại khu rừng Tánh Linh-Bình Tuy, dưới dạng ông Cố vấn Ngô Đình Nhu giả vờ đóng vai người đi Săn Cọp để gặp gở ủy viên Phạm Hùng.

– Vậy, Phía Cộng hòa là ông Ngô Đình Nhu, còn phía Việt cộng là ông Phạm Hùng. Họ đã nói gì?

– Mức độ tiến triển của cuộc thương thuyết sẽ ra sao?

– Sự thỏa hiệp này có lợi cho Cộng Hòa hay Cộng Sản?

– Ai hứa hẹn với ai điều gì?

– Tại sao ông Ngô Đình Nhu phải đi nước cờ này? Và phải chăng nước cờ này mang tính “tháu cáy” mà ông Nhu muốn người Mỹ thay đổi lập trường với Chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa?

– Hay, nước cờ này là hai ông Diệm- Nhu muốn bán đứng Miền Nam cho Việt cộng như bao người đã kết tội?

– Hoặc, nếu thỏa hiệp hòa bình này thành công thì Việt Nam sẽ như thế nào? Cục diện chính trị có rơi vào tình trạng bi đát như hiện nay không?

Hàng ngàn câu hỏi đã đặt ra, và đã có hàng vạn lập luận trả lời đã in trên mặt giấy. Nhưng tất cả đều bị bịt kín sau tấm màn bí mật, và có thể sự bí mật này sẽ bị chôn vùi dưới lớp bụi thời gian. Phía người bênh vực cho hai ông Diệm- Nhu thì khá khiêm tốn khi bàn về sự kiện này. Nhưng phía người chống thì quyết một lời là tố cáo, và lập luận tố cáo được đưa ra nhưng không mấy có sự khả tín và thuyết phục, nếu không muốn nói là ác cảm tính. Trong khi các yếu tố về lịch sử như ngoại giao- quân sự- pháp lý- tình tự dân tộc- ý chí lãnh đạo của mỗi bên, kể cả của Hoa Kỳ và Đồng Minh, cũng như Nga Sô- Trung Cộng và khối Xã hội chủ nghĩa chưa được kết hợp để tạo nên một lập luận vững vàng.

Vậy, làm sao để soi rõ sự kiện này khi hai nhân vật chính cũng đã đột ngột bị bức tử như chính kế hoạch hòa bình bị dang dở. Câu trả lời thật quá khó như hỏi ông Trời có bao nhiêu tuổi và trái Đất có tự bao giờ! Nhưng, đây chính là điểm hấp dẫn nhất, thu hút nhất để cho ai sau này muốn làm nên một Luận án Hòa Bình và Chiến Tranh của Việt Nam và Đông Dương. Bởi rằng, Nếu đem so với tất cả danh nhân từng nhận giải Nobel Hòa Bình trên thế giới, thì kế hoạch hòa bình của Cố vấn Ngô Đình Nhu thật sự mang một đặc tính hết sức táo bạo và độc đáo, hay nói cách khác là độc nhất vô nhị. Vì, cuộc thương thuyết không hề xảy ra trong một phòng xa hoa với tiếng khui nổ giòn của những chai rượu, mà sự thỏa hiệp được âm thầm môi giới của 2 vị Đại sứ quán Pháp và Ấn Độ, và điều gì còn lại xảy ra, tất cả có chỉ hai người trong cuộc mới tận tường cốt lỏi..

Để tỏ lòng Kính trọng đối với một Chính trị gia xuất sắc có công Chống Cộng, xin gác lại mọi lời bình cũng như phân tích về sự thành công hay thất bại của kế hoạch hòa bình này, hơn nữa khi sự kiện chưa trở thành lịch sử thì không nên vội vàng phán xét. Do đó, bài viết này chỉ xin đưa ra một số lập luận có cơ sở để xác định rằng: Kế hoạch hòa bình của ông Ngô Đình Nhu rất hữu lý và có khả năng sẽ thành hữu lực, nếu ông không bị thảm sát.! Vì rằng, một số câu hỏi dưới đây xin được đặt ra cho những ai muốn tham luận về sự kiện này, và tự câu trả lời theo cảm nhận của mỗi người sẽ là yếu tố để xác quyết cho vấn đề.

a) Ai quả quyết được rằng Chính phủ Hoa Kỳ mãi mãi tiếp sức viện trợ cho Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Dù là một hậu Chính phủ được Dân cử sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm (về hưu hay bị thảm sát), để tiếp tục Chống Cộng.

b) Ai nhất quyết chắc chắn rằng Trung Cộng và Nga Sô cùng khối Cộng sản vĩnh viễn Vô Điều Kiện yểm trợ mọi mặt cho Hà Nội để duy trì cuộc chiến.

c) Nếu cả hai miền Nam-Bắc đều được hai Khối cường quốc ủng hộ, thì chiến tranh kéo dài đến bao lâu, và dân tộc Việt Nam được gì? Mất gì?

d) Miền Nam có chiến thắng cuộc chiến này không? Hay, vĩnh viễn nằm trong thế phòng thủ và bị động, hay nói cách khác là suốt đời bị Mỹ bắt “giẫm chân tại chổ”, vì lịch sử đã chứng minh chưa thấy VNCH vượt vỹ tuyến 17 để đánh địch quân, nghĩa là luôn luôn tôn trọng Hiệp Định 1954.

e) Nếu Chính phủ VNCH rơi vào tình trạng như điểm ( d ) nói trên, và ngay cả thời Đệ Nhị Cộng Hòa cũng vậy (vì lịch sử đã chứng minh). Trong khi tham vọng cưỡng chiếm Miền Nam của Bắc Việt không từ bỏ thì kết quả cuộc chiến như thế nào?

f) Tất cả lịch sử đã chứng minh. Phía Việt Cộng chiến thắng, nhưng được gì? Và Tổ Quốc Việt Nam hiện nay đã mất gì? Dân tộc Việt Nam trong quá khứ và tương lai đã và sẽ mất gì, cần gì?

g) Hòa bình vào giữa thập niên 1960 hay 1975 giống và khác gì nhau cho người còn sống hôm nay? Hay, được và mất gì cho mấy triệu con dân Việt nằm xuống hôm qua???

Rất nhiều câu hỏi cần đặt ra, nhưng chỉ nêu lên một số điểm căn bản để suy luận. Và nhằm khai thông, giải tỏa cho cuộc gặp gở bí mật, hay nói cách khác là một kế hoạch hòa bình đã bị chết non. Bằng một câu hỏi ngắn gọn rằng:

Phải chăng ông Ngô Đình Nhu đã nhìn thấu hết cục diện chính trị của cả 2 miền Nam- Bắc, và biết trước kết quả của cuộc chiến???

Để rồi từ đó ông đi đến một quyết định táo bạo nhưng có tính toán, nhằm muốn vãn hồi cuộc chiến trong sự có lợi hỗ tương cho hai phe. Đồng thời phía ông Hồ Chí Minh cũng cùng chung một suy nghĩ, cho một Việt Nam được tự quyết trên phương diện Chủ Quyền Quốc Gia.

Phía Bắc Việt, chưa từng tiết lộ một chi tiết nào về vấn đề này, hay nói cách khác họ không dại gì nói ra để mất đi “ cái oai của người chiến thắng”!

Phía Nam Việt, ai là người cực lực phản đối vì cho rằng ông Nhu chỉ làm “ảo để tháu cáy” người Mỹ. Chứ, ông Nhu không thể nào tính xa như vậy! Nếu có suy nghĩ như thế thì xin hãy tìm đọc phần nhận định của chính ông Nhu trong: CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM. Đó chính là cơ sở vững chắc nhất, là yếu tố quan trọng nhất để xác định một phần nào, dù là nhỏ nhất, để thấy rằng kế hoạch hòa bình mà Cố vấn Ngô Đình Nhu đang thực hiện dang dở là không mơ hồ và ảo tưởng. Trong cuốn sách giá trị đó, Ông Nhu từng nhấn mạnh rằng: HÀ NỘI THẮNG THÌ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM SẼ MẤT VÀO TAY TRUNG CỘNG.

Xin thêm một lần được lập lại rằng, hơn ai hết, trong nội các của Chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa thì ông Ngô Đình Nhu là người duy nhất, và duy nhất là người nắm vững hết tin tức Tình báo chiến lược từ hạ tầng đến thượng tầng cơ sở, để thấu triệt hiểu biết hết tình hình ngoại chính và nội bộ của đối thủ là Hồ Chí Minh. Đơn cử một ví dụ mà toàn dân Việt Nam, ngay cả những đảng viên cấp cao trong Quốc Hội hay Bộ chính trị cộng sản Việt Nam thời đó, mấy ai biết được Công hàm bán Biển Đảo năm 1958 cho Trung Cộng do Phạm Văn Đồng ký tên, trong sự đồng ý của Hồ Chí Minh đang tối cao đương quyền lúc đó. Nhưng, biết đâu tin tức bí mật này đã lọt vào tai ông Cố vấn Ngô Đình Nhu! Và, ai đoán ra được tư tưởng của Hồ Chí Minh khi đó??? Hai câu hỏi nhưng cũng là một vấn đề mà ngay cả Gia Cát Lượng, Trương Lương hay Phạm Lãi nổi tiếng bên Tàu đội mồ lên sống lại, cũng phải trả lời: Có trời mới biết. 

Ảnh: Ông Ngô Đình Nhu thăm một làng tại Củ Chi 1963

Sở dĩ, phải đặt ra vấn đề trên. Vì toàn bộ tiểu tiết đến đại tiết của sự kiện đều bao trùm lên một sự bí mật, nên có quyền đặt ra giả định để tạo thành lập luận, ngõ hầu giúp các sử gia mai hậu anh minh cao kiến hơn, để thẩm định một góc khuất lịch sử của nước nhà.

Hôm nay đây, đếm trên đầu ngón tay, sau ngày Cố vấn Ngô Đình Nhu mất là 46 năm. Hiện trạng chính trị của quốc gia Việt Nam đang như thế nào? Câu hỏi này không chỉ dành cho kẻ thắng người thua, không đơn phương dành cho người bênh hay chống ông. Nhưng tất cả đã thấy rõ. Biên giới phía Bắc, hay Tây Nguyên là nơi mà ông Nhu cho là tử huyệt đã về tay Trung Cộng. Rồi Hoàng Sa đang phát giấy bạc Trung Cộng cho dân Tàu xài, còn Trường Sa thì Việt Cộng vẫn rêu rao là có “bộ đội ta” đang đóng. Phải, bộ đội đang đóng trên một vài gầm Đá to không đủ để cho mấy con Cá Mập cà Lưng khi ngứa ngáy mình.

Chiến tranh hay Chiến thắng ai nuôi mộng, được gì???

Ai nhận giải Nobel Hòa Bình? Và vì sao người ta phải trao giải này? Có phải người ta hoan hô vì một phần nhân loại không còn chảy máu. Chỉ cách đây vài ngày, người xem truyền hình trên toàn thế giới, đều phải thút thít hay cắn môi trước cảnh một Mẹ già 100 tuổi ngồi trên xe lăn từ Bắc Hàn đến nhà Khách Đoàn Tụ, rồi khán giả phải thắt tim khi khi 2 người con tuổi đã 75 tuổi từ Nam Hàn đến, họ cung kính quỳ lạy người Mẹ kính yêu sau bao năm xa cách. Ranh giới giữa chiến tranh hay biên giới của hòa bình thật gần nhưng thật xa nhiều quá! Ai mạnh dạn nói rằng tôi muốn đất nước tôi như thế! Có..có thể có vài người nhưng dễ dầu gì nói ra mà không nghẹn tiếng. Rất có thể! Có thể thôi, là 46 năm trước, Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu cũng đã muốn nhen nhóm lên ngọn lửa Hòa Bình dưới hai làn bom đạn. Chắc chắn, ý tưởng của ông không mang tham vọng cá nhân. Bởi, bộ óc trăm năm như ông không tìm ra được một lối thoát cho chính mình tại Pháp-Đài Loan hay Ai Cập? Có lẽ, cái giá của dân tộc, của tổ quốc cao hơn mạng sống của chính mình!

Ôi. Quê hương ơi! Bao giờ người cộng sản Việt Nam nghĩ được như thế!

Ảnh gia đình ông bà cố vấn Ngô Đình Nhu

Vĩnh biệt một Chính trị gia ngàn năm khó kiếm với tấm lòng kính phục, khâm phục của một kẻ sinh ra sau khi Người đã ngủ với giấc mộng hòa bình, 1 năm.

NGUYỄN DUY THÀNH.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Bảo vệ Cờ Vàng

Mạnh Hải Flicker (hình ảnh)

Phụ chú hình ảnh:

1. Từ trái: Mộ ông Nhu (Đệ), giữa: Mẹ (Bà Phạm thị Thân) và bên phải: mộ Tổng thống Ngô Đình Diệm (Huynh)

2. Tại Việt Nam: Các tín hữu Công giáo đông đảo đến cử hành thánh lễ giỗ ngay tại mộ phần, cầu nguyện cho các ngài hàng năm.

3. Lễ Tưởng niệm Tổng thống Ngô Đình Diệm được tổ chức khắp nơi trên thế giới, ảnh chụp tại Tượng đài Chiến Sĩ, Nam California.

 




Đổi trắng thay đen – Nguyễn Phúc Liên Thành

Bài đọc suy gẫm: Nhằm vinh danh binh chủng Cảnh sát, và Cảnh sát Dã Chiến, Blog Mười Sáu hân hạnh đăng bài “Đổi trắng thay đen” tức: Trận Chiến Tình Báo, Phản Tình Báo giữa VNCH/CIA và Tình Báo Cộng Sản Hà Nội. Thư của tác giả Liên Thành gởi hai tướng việt cộng tại Hà Nội hiện tại với nhiều chi tiết, chứng cớ xác thực phản bác những cái gian trá vốn là bản chất của những người cộng sản nhằm đánh lừa đồng bào Việt Nam và những nhà viết sử về cuộc chiến tình báo giữa hai miền Nam, Bắc trong chiến tranh Việt Nam.Hình ảnh chỉ có tính cách minh họa cho bài đọc.

Ảnh: Thiếu tá Liên Thành và Cảnh Sát Dã Chiến VNCH trên đường phố Sài Gòn

  Orange County, California. USA. Ngày 15 tháng 6 năm 2017

THƯ CỦA LIÊN THÀNH, TÁC GIẢ TÁC PHẨM
“TRẬN CHIẾN TÌNH BÁO, PHẢN TÌNH BÁO GIỮA VNCH/CIA VÀ TÌNH BÁO CỘNG SẢN HÀ NỘI.”


Nơi gởi: Liên Thành
P.O.BOX 6147 Fullerton, Ca. 92834 USA.
Cell Ph: 626-257-1057
Email: ubtttadcsvn68@gmail.com; nguyenphuclt1966@gmail.com

Nơi nhận: 1/ Trung tướng Phạm Ngọc Hùng Tổng cục Trưởng, Tổng cục 2. [2014-Hiện tại] Hà Nội, Việt Nam

2/ Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh Thứ trưởng Quốc phòng chính phủ cộng sản Việt Nam Nguyên Tổng cục Trưởng, Tổng cục 2 [2002-2009] Hà Nội, Việt Nam

 
Thưa hai Ông Phạm Ngọc Hùng, Nguyễn Chí Vịnh,

Nhiều năm trước và hiện tại, Tổng Cục 2 của các ông đã tung ra nhiều huyền thoại, những thần tượng, tưởng như chuyện thần tiên của trẻ thơ về những nhân vật tình báo của các ông khi hoạt động tại miền nam Việt Nam trước 1975, như:

– Trần Quốc Hương tự Mười Hương, tên thật là Trần Ngọc Bang, thuộc Cục Tình Báo Chiến Lược. Cấp bậc Thiếu tướng.

– Đại tá Lê Câu, Chỉ huy Cục 2 Quân Báo Miền Nam.

– “Điệp Viên Hoàn Hảo” Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn.

– Vũ Ngọc Nhạ, Thiếu tướng, Cụm Tình Báo Chiến Lược A–22.

– Điệp viên Trần Ngọc Hiền, Cụm Tình Báo A–26.

– Điệp viên Bùi Đình Đệ tức ông Sáu Già, Cụm Tình Báo A–54.

– Điệp viên Đại tá Quân Đội Nhân Dân Phạm Ngọc Thảo [cũng là Đại tá QLVNCH].

Đặc biệt nhân vật Thiếu tướng Mười Hương Tức Trần Quốc Hương được Tổng Cục 2 các ông ca tụng trong một cuốn sách: “Trần Quốc Hương – Người Thầy Của Những Nhà Tình Báo Huyền Thoại”.

– Vũ Ngọc Nhạ trong tác phẩm “Ông Cố Vấn”, và cũng đã được đóng thành phim.

– Phạm Xuân Ẩn trở thành một “Điệp Viên Hoàn Hảo”.

– Đại tá Lê Câu…

Thậm chí một số thuộc loại tép rêu như Lê Hữu Thúy, Trần Ngọc Hiềnn v.v. cũng được ca tụng tận trời xanh.

Mục đích của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Tổng Cục 2 muốn gì?

Đảng Cộng Sản Việt Nam và các ông Tổng Cục 2 muốn bôi đen thay trắng, đánh lừa đồng bào Việt Nam, đánh lừa các nhà viết sử khi viết về cuộc chiến tranh Việt Nam, đem sự thật biến thành sự dối trá, đem thất bại biến thành chiến thắng.

Thật là hổ thẹn cho Đảng Cộng Sản Việt Nam, Tổng Cục 2, và chính các ông. Đảng Cộng Sản Việt Nam là một đảng cướp, muôn đời vẫn chỉ là đảng cướp. Tên đầu đảng cướp Hồ Chí Minh và đám lâu la thuộc hạ các ông, những kẻ xuất thân từ trường mẫu giáo núi rừng Trường Sơn vạn kiếp vẫn là những kẻ ngu dốt, gian manh, bần tiện, đổi trắng thay đen, phỉnh gạt láo lường.

Sự thật đã không như các ông phổ biến ca tụng, mà sự thật quả là quá phũ phàng. Tất cả những nhân vật mà Đảng Cộng Sản của các ông và chính các ông ca tụng là: “Người Thầy Của Những Nhà Tình Báo Huyền Thoại” là “Điệp Viên Hoàn Hảo” là “Ông Cố Vấn” tối cao, là “anh hùng” là “liệt sĩ”, tất cả bọn chúng, và toàn bộ tổ chức, cùng nhân viên của bọn chúng đã bị các cơ quan tình báo của nền Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hòa bắt giữ. Từ Thiếu tướng tình báo Trần Quốc Hương tức Mười Hương, đến Đại tá Lê Câu, Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ. Vũ Ngọc Nhạ bị bắt đến 2 lần. Lần thứ nhất bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt của ông Dương Văn Hiếu dưới thời Đệ I VNCH bắt giữ. Sau một thời gian được học hỏi, y quyết định trở về hợp tác với cơ quan Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung. Hằng tháng y được phát lương như tất cả anh em trong đoàn.

Sau khi Đệ I VNCH sụp đổ, Vũ Ngọc Nhạ tái hoạt động trong tổ chức Tình Báo Chiến Lược A–22. Lần này y và toàn bộ tổ chức Tình Báo Chiến Lược A–22 sa lưới Trung tá Nguyễn Mâu Trưởng Ngành Cảnh Sát Đặc Biệt của Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, thời Đệ II VNCH.

Ngoài ra, Cụm A–22 còn có những nhân vật sau đây bị bắt giữ:

– Huỳnh Văn Trọng
– Phạm Xuân Hòe
– Lê Hữu Thúy, Phái khiển Tình Báo
– Lê Hữu Ruật
– Bùi Nhượng Thắng
– Lê Thị Nuôi

Và năm mươi [50] cơ sở của bọn chúng bị bắt giữ. Tất cả đã bị truy tố trước tòa án của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Nói về nhân vật Phạm Xuân Ẩn mà Đảng Cộng Sản và Tổng Cục 2 đã biến hắn ta thành một nhân vật huyền thoại, thần thánh, trong giới tình báo của Tổng Cục 2. Họ cũng không quên phong cho Phạm Xuân Ẩn lên cấp Thiếu tướng Anh Hùng lực lượng vũ trang.

 Phạm Xuân Ẩn và Larry Berman tác giả cuốn Điệp viên hoàn hảo X6

Vậy Phạm Xuân Ẩn là ai?

Phạm Xuân Ẩn sinh ngày 12/9/1927, tại Bình Phước, Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai. Mất ngày 20/9/2006.

Bí danh Trần Văn Trung hay Hai Trung. Mật danh X6.

–1956 y là nhân viên của Bác sĩ Trần Kim Tuyến, phục vụ tại cơ quan Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống, Đệ I/VNCH.

–1967 Bác sĩ Trần Kim Tuyến đã gởi Phạm Xuân Ẩn sang Hoa Kỳ học khoa báo chí tại Đại Học Cộng Đồng gọi là Community College tại trường Orange Coast College, thuộc Orange County, California.

Hệ thống giáo dục tại Hoa Kỳ thì các College chỉ có học trình 2 năm mà thôi. Sinh viên ra trường với văn bằng Associate. Nếu muốn lấy cử nhân 4 năm [BS hay BA] phải chuyển lên học tại các University.

–1960 về nước, được ông Trần Kim Tuyến bố trí làm tại Việt Tấn Xã.
–1963 đến năm 1964 làm cho hãng tin Reuters.
–1966 làm cho tờ Time.

Về “Huyền thoại vĩ đại” của Thiếu tướng “Điệp Viên Hoàn Hảo” Phạm Xuân Ẩn của các ông, theo tài liệu đã giải mật của cơ quan tình báo Trung Ương Hoa Kỳ CIA thì “Điệp Viên Hoàn Hảo” của Tổng Cục 2 cộng sản Hà Nội Phạm Xuân Ẩn đã được CIA tuyển mộ, huấn luyện, trở thành “Điệp viên nhị trùng”.

Như vậy Tổng Cục 2 Tình Báo Chiến Lược Hà Nội của các ông đã xài đồ giả “Made in CIA” trong khoảng 15 năm [từ 1960–1975] do Phạm Xuân Ẩn giao cho các ông. Các ông chẳng phát hiện được, cũng chẳng biết là đồ giả “Made in CIA”, như vậy các ông thật quá tệ. Đề nghị nên đem cái tên Tổng Cục 2 Tình Báo Chiến Lược của các ông bỏ vào toilet bấm cho nó trôi theo… cho xong, cho đỡ ngượng, nên lắm thay!

Tôi đề nghị các ông đổi lại danh xưng Thiếu tướng Tình Báo “Điệp Viên Hoàn Hảo” Phạm Xuân Ẩn là: “Điệp Viên Hoàn Hảo 2 Mang”.

Người miền Bắc thường nói “cầm nhầm” có nghĩa của người khác mà mình lại nói là của mình. Người Huế thì nói là “nhìn lạm”. Hai danh từ đều đồng một nghĩa. Đảng Cộng Sản Việt Nam và Tổng Cục 2 các ông đã “cầm nhầm” hay là “nhìn lạm” Phạm Xuân Ẩn rồi đó.

Ngày 30/4/1975 Thiếu tướng Tình Báo Phạm Xuân Ẩn ở lại Sài Gòn. Thế nhưng vì không hoàn hảo, nên Tổng Cục 2 nghi ngờ Phạm Xuân Ẩn, gọi Phạm Xuân Ẩn ra Hà Nội để làm tờ tự khai và bị thẩm vấn hơn một năm trời. Sau đó Phạm Xuân Ẩn trở thành một tù nhân, bị quản thúc tại gia, đã bị canh gác, giám sát chặt chẽ, cấm xuất ngoại, cho đến ngày chết, là ngày 20/9/2006.

Di chúc của Thiếu tướng tình báo Cộng Sản Việt Nam Phạm Xuân Ẩn trước khi chết là:

“Khi tôi chết, xin đừng chôn tôi với những người Cộng Sản”.

Hai ông Trung tướng Tình Báo Phạm Ngọc Hùng hiện là Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 2, và Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đương kim Thứ Trưởng Quốc Phòng, Chính Phủ Cộng Sản Việt Nam, Nguyên Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 2, vui lòng giải thích lời trăn trối của Thiếu tướng Tình Báo Phạm Xuân Ẩn của các ông, cho toàn thể quốc dân đồng bào Việt Nam nghe được không? Tại sao Phạm Xuân Ẩn lại ghê tởm người Cộng sản các ông như vậy?

Chưa xong, xin hai ông Trung tướng Phạm Ngọc Hùng và Nguyễn Chí Vịnh đọc những tài liệu những nhận xét do chính người của hai ông, chính cơ quan Tổng Cục 2 phúc trình lên Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam về thành quả bi thảm của Tổng Cục 2 tại miền Nam Việt Nam.

Xin hai ông hãy đọc một đoạn nói về hoạt động của Đoàn Công Tác Đặc Biệt do những cán bộ cao cấp của Việt Cộng ghi lại sau ngày 30/4/1975.

Trong cuốn hồi ký mang tên “Bội Phản hay Chân Chính?”, Dư Văn Chất, Phái khiển của cụm tình báo chiến lược A–22 đã viết:

“Đây là một ngành an ninh đích thực, nhưng là một ‘siêu tổ chức’ với nhiều đặc thù mà không có bộ máy nào của Ngụy so sánh được. Nó tập trung quyền lực cao độ: Cực quyền, với các phương thức hoạt động hết sức tinh vi, hiểm độc và táo bạo. Trong cái nhà tù không song sắt, Công an Mật vụ cùng với kháng chiến Việt Cộng ăn chung, ngủ chung, chơi chung và công tác chung. Chuyện khó tin mà có thật, và chỉ có được trong thời điểm lịch sử nhất định. Bắt đầu từ cuộc đấu tranh chính trị đòi hỏi hiệp thương tổng tuyển cử cho tới tiếng súng Đồng Khởi hạ màn kết thúc. Thành tích chống Cộng của Mật vụ Ngô Đình Cẩn – Dương Văn Hiếu thật diệu kỳ. Chúng đánh phá vào cơ quan đầu não của các Đảng bộ miền Trung như Liên Khu Năm, Tỉnh Ủy Thừa Thiên, Thành Ủy Huế rồi Đà Nẵng. Tiến xuống phía Nam, chúng tấn công cơ sở Đặc Khu Sài Gòn Chợ Lớn, Thủ Biên, Cần Thơ. Nổi bật nhất là Mật vụ Miền Trung đánh bắt gọn các lưới Tình Báo Chiến Lược của ta trải suốt từ Bến Hải tới Sài Gòn trong vòng chỉ một năm.”

Chính Trần Quốc Hương cũng đã nhìn nhận:

“Cái chủ trương bao trùm của Ngô Đình Cẩn là chuyển hướng tù nhân, đối tượng là những người kháng chiến nằm vùng hoặc từ Bắc vào. Ai có bị bắt, bị nhốt trong các nhà lao ấy mới thấy sự thâm hiểm của chúng. Ngô Đình Cẩn thường nhốt chung năm bảy người vào một cụm. Chúng nó vẫn cho ăn, uống, đi lại, thậm chí có thể gởi mua sách báo đọc. Nhốt từng buồng giam nhưng như kiểu không nhốt, có khoảng cách khó hiểu, để mọi người nghi ngờ lẫn nhau, muốn đoàn kết vẫn không đoàn kết được.”

Hai ông Trung tướng, Tổng Cục 2 Tình Báo

– Phạm Ngọc Hùng
– Nguyễn Chí Vịnh,

Tôi Liên Thành, không là nhà văn, lại càng không phải là một nhà viết sử. Tôi hoàn toàn không có khả năng làm hai việc đó. Tôi chỉ là một người trẻ vào giai đoạn 1960–1975 khi mà miền Nam của chúng tôi đang bị quân thù Cộng sản miền Bắc của các ông xua quân xâm lăng. Tôi và các bạn hữu rời bỏ sân trường Đại học, lăn xả lao mình vào cuộc chiến, kề vai chống đỡ khổ nạn của Tổ Quốc, của Quê Hương do các ông gây nên. Chúng tối bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào trước làn sóng xâm lăng của Bắc quân cộng sản miền Bắc các ông.

Chúng tôi chiến đấu cho Lý Tưởng Quốc Gia, không hận thù, không mặc cảm, hãnh hiện là người lính Việt Nam Cộng Hòa để bảo vệ đồng bào, bảo vệ non sông, đất nước.

Từ 1963–1965 tôi là sĩ quan đại đội trưởng đại đội tác chiến.

1966–1975 Tôi là sĩ quan Tình báo, phản gián, của Quân Lực VNCH và Cảnh Sát Quốc Gia VNCH. Một người đối đầu với các ông trong trận chiến tình báo tại Tỉnh Thừa Thiên–Huế, trong gần mười năm. Có thể nói tôi là chứng nhân và cũng là tác nhân trong giai đoạn đó tại Thừa Thiên–Huế.

Từ những dối trá, phỉnh gạt đồng bào và các nhà viết sử, về cuộc chiến tình báo tại miền Nam Việt Nam, giữa Tổng Cục 2 Tình Báo Cộng sản Hà Nội và các cơ quan Tình Báo Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hòa, các ông đã tạo dựng một số người của các ông thành thần tượng Tình Báo với chiến thắng lẫy lừng.

Không đúng với sự thật. Các ông đã thoa son trét phấn, đã thần tượng hóa Mười Hương, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Câu, và Phạm Xuân Ẩn. Trong khi đó thì sự thật tất cả bọn họ đã là tù nhân của chúng tôi, của các cơ quan Tình Báo Đệ I và Đệ II VNCH, ngoại trừ Thiếu tướng Tình báo Phạm Xuân Ẩn của các ông, là điệp viên nhị trùng của cơ quan Tình Báo Hoa Kỳ CIA. Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa (C.I.O.), và Ngành Cảnh Sát Đặc Biệt đã biết Phạm Xuân Ẩn là nhị trùng của CIA, nên không đụng đến, không bắt hắn ta, vì đó là nguyên tắc.

Nói chuyện nguyên tắc tôi xin kể hai ông nghe mẫu chuyện nhỏ dưới đây, để hai ông rõ hơn về trường hợp Phạm Xuân Ẩn tại sao không bị các cơ quan Tình báo Đệ I và Đệ II VNCH bắt giữ.

Câu chuyện như sau:

Vào niên học 1971 cũng là thời gian sắp có cuộc bầu cử Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa nhiệm kỳ II tại miền nam Việt Nam. Tại Huế, sinh viên Đại Học Huế biểu tình chống bầu cử, chống chương trình quân sự học đường, chống chiến tranh, và đuổi quân đội Mỹ về nước.

Cuộc biểu tình này do Sinh viên Trần Hoài, Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế, hắn là người của Thành Ủy Việt Cộng (VC) Huế. Cạnh Trần Hoài còn có sinh viên Đại học Y khoa Sài Gòn, Huỳnh Tấn Mẫm, từ Sài Gòn ra Huế phối hợp với Trần Hoài. Huỳnh Tấn Mẫm là người của Thành Đoàn VC Sài Gòn, người của các ông.

Cuộc biểu tình này do người bạn đồng minh thắm thiết của chúng tôi là Hoa Kỳ, và Cộng sản nội thành Huế đứng phía sau. Phía Mỹ, để sửa soạn dư luận tốt cho việc rút quân, còn phía cộng sản các ông là gây xáo trộn bất ổn tại Huế.

Lực lượng an ninh chúng tôi biết rất rõ mục đích của Mỹ và Việt Cộng các ông. Tôi đích thân chỉ huy và đàn áp không nương tay cuộc biểu tình này. Bắt giữ một số sinh viên trong đó có Trần Hoài và Huỳnh Tấn Mẫm.

Tại Trung Tâm Thẩm vấn Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên–Huế, tôi trực tiếp thẩm vấn Huỳnh Tấn Mẫm.

Cuộc thẩm vấn chưa được 10 phút thì có tiếng gõ cửa. Cửa mở, người đứng ngay cửa không ai khác hơn là viên Cố Vấn Mỹ CIA Ngành Đặc Biệt của tôi. Hắn nháy mắt mời tôi, và tôi ra ngoài với hắn. Mười lăm phút sau tôi ký giấy phóng thích Huỳnh Tấn Mẫm. Hai Ông Trung tướng Tổng Cục 2 Tình Báo Chiến Lược VC. Biết tại sao tôi thả Huỳnh Tấn Mẫm không?

Vì Huỳnh Tấn Mẫm là Điệp Viên Nhị Trùng của CIA. Hắn vừa làm cho Thành đoàn Cộng sản của các ông tại Sài Gòn, mà hắn cũng là người của CIA nằm vùng trong tổ chức Thành đoàn của các ông tại Sài Gòn.

Tôi thả Huỳnh Tấn Mẫm theo yêu cầu của Cố Vấn CIA, vì hắn là điệp viên của cơ quan tình báo bạn CIA.

Trường hợp Huỳnh Tấn Mẫm cũng giống như trường hợp Thiếu tướng Tình báo Phạm Xuân Ẩn của Tổng Cục 2 của các ông.

VỀ MẶT TÔN GIÁO VẬN

Thích Trí Quang người của Cục Tình Báo Chiến Lược các ông, hắn cũng là của Cơ Quan Tình Báo CIA Hoa Kỳ, nghĩa là hắn làm 2 mang, hay Trí Quang là nhân viên “Nhị Trùng”. Đây là tài liệu giải mật của CIA.

Ngoài ra hai điệp viên thuộc loại “thượng đẳng” của Tổng Cục 2 gởi từ Hà Nội sang Ấn Độ từ Ấn Độ về Nam Vang, Cao Miên, vượt Tây Ninh lên Ấn Quang Sài Gòn, là Đặng Phúc Tuệ tức Thích Quảng Độ đã bị Tổng Nha Cảnh Sát Công An Đệ I Việt Nam Cộng Hòa bắt giữ.

Riêng Điệp Viên Đinh Văn Nam tức Thích Minh Châu được Cục Quân báo gởi qua Ấn Độ rồi dùng Thích Trí Quang áp lực với Phản tướng miền Nam là Tướng Nguyễn Khánh cấp Visa cho Đinh Văn Nam đến Sài Gòn làm Viện Trưởng Đại Học Vạn Hạnh vào năm 1964.

Cũng nhờ vậy, mà cơ quan Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia chúng tôi đã bám sát, theo dỡi Đinh Văn Nam nên đã phát hiện được một số lớn các cơ sở nội thành trong giới trí thức và sinh viên tại Sài Gòn.

Riêng tại Huế thì các cơ sở Tôn Giáo Vận của Trung tá Hoàng Kim Loan, Cục Tình Báo Chiến Lược, như Thích Thiện Siêu, Thích Như Ý, v.v. Tất cả đều bị lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt CSQG/Thừa Thiên phát hiện bắt giữ cùng với Trung tá Điệp Viên Hoàng Kim Loan.

Hai ông và tôi, chúng ta đều biết rằng cuộc chiến tranh Việt Nam (1954–30/4/1975) có ba mặt trận rõ ràng đó là:

1– Mặt trận Quân sự
2– Mặt trận Tình báo
3– Mặt trận Chính trị

1. VỀ MẶT TRẬN QUÂN SỰ

Quân đội Nhân Dân cộng sản miền Bắc đã nhiều lần đụng trận với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từ những đơn vị nhỏ bé nhất, những đơn vị thuộc lực lượng diện địa như Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, đến các đơn vị Chủ lực quân là các Sư Đoàn của các Quân Đoàn, Quân Khu trên 4 Vùng Chiến Thuật I, II, III và IV, cũng như các đơn vị Tổng trừ bị của Quân Lực VNCH: Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Các Liên Đoàn Biệt Kích, Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt, Lực Lượng Biệt Hải, Lực Lượng Người Nhái.

Các chiến tích anh hùng, các chiến thắng lừng danh, vang dội thế giới của Quân Lực VNCH vẫn còn đó như: Lao Bảo, Khe Sanh, Ben Het, Đắc Tô, Bình Giả, Chiến Khu D, Cái Nước, Đầm Dơi, U Minh, Bình Long, An Lộc, Pleiku, Kontum, Trị Thiên, Đồng Hà, Cổ Thành Quảng Trị, v.v.

30/4/1975 chúng tôi không phải là người thua cuộc như các ông đã rêu rao. Chúng tôi đã bị buộc phải buông súng. Chúng tôi bị bức tử, vì sự phản bội của người bạn đồng minh Hoa Kỳ. Vì sự chia chác quyền lợi kinh tế, chính trị, ngoại giao, của Hoa Kỳ, Trung Cộng, và Nga Sô.

Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, bị xóa sổ bởi ba bàn tay khổng lồ đó, chứ không phải Đảng Cộng Sản Việt Nam, và quân đội Nhân Dân của các ông thắng chúng tôi. Các ông không bao giờ làm nổi điều đó đối với chúng tôi: NHỮNG NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA và CSQG/VNCH.

Còn miền Bắc các ông, tự phong là kẻ thắng cuộc, sao các ông lại cam tâm đi làm tôi tớ cho mấy thằng Chệt Trung Cộng quỷ đỏ phương Bắc. Về điểm này, từ tên Đầu Đảng Cướp Hồ Chí Minh, đến đám thủ hạ lâu la Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Chí Thanh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Ngọc Hùng, Nguyễn Chí Vịnh, v.v. tất cả đều hả hê vui sướng, tự phong cho mình là kẻ chiến thắng. Các ông đã quên rồi sao! Tổng Bí Thư Lê Duẩn của các của các ông đã xác nhận “Chúng ta đánh là đánh cho Liên Sô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa…”

Các ông nỡ lòng nào làm lũ chó săn tay sai cho Tàu Chệt Trung Cộng, đem giang sơn, gấm vóc của Tiền Nhân để lại, cúi đầu dâng biển, dâng đất, dâng lãnh thổ, dâng đồng bào cho đám Tàu Chệt Trung Cộng.

Tóm lại, về mặt trận quân sự ai là kẻ thắng cuộc, hay thua cuộc, xin dành lại cho các nhà bình luận các nhà viết sử chân chính nhận định, phân tích, bàn luận. Họ sẽ không quên trong cuộc chiến vừa qua, Tàu Chệt Trung Cộng đã gởi qua miền Bắc một triệu quân [1,000,000] tham chiến cùng với các ông.

Thiếu tá Liên Thành (hình trên), lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến đang chuẩn bị xung trận.

2. VỀ MẶT TRẬN TÌNH BÁO

Trận chiến Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975 khi mà chiếc xe tăng T–54 của Cộng sản Bắc Việt ủi sập cổng dinh Độc Lập của miền nam Việt Nam. Nhìn vào cảnh đó, có nhiều người nghĩ rằng đó là kết thúc của một cuộc chiến tranh quy ước. Thật ra, cuộc chiến tranh Việt Nam từ đầu đến cuối [1955–1975], không là một cuộc chiến tranh phi quy ước. Đó chính đích thực là cuộc chiến tranh nổi dậy.

Trong cuộc chiến tranh phi quy ước, hay cuộc chiến tranh nổi dậy, giải pháp và kết quả tình báo đứng vào hàng ưu tiên số một. Phe bên nào thành công trong công tác tình báo diện địa, và tình báo chiến lược phe bên đó là kẻ thắng cuộc.

Hai ông Trung tướng, Tổng Cục 2 Tình Báo, Cộng Sản Việt Nam

– Phạm Ngọc Hùng
– Nguyễn Chí Vịnh,

Như tôi đã trình bày ở phần trên, cơ quan Tổng Cục Tình Báo Chiến Lược của các ông đã thất bại nặng nề khi đối đầu với các cơ quan Tình Báo Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là đối với Lực Lượng Cảnh Sát Đặc Biệt của Ngành Đặc Biệt, thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.

Vậy mà các ông vẫn dối trá, phỉnh gạt, biến sự thất bại của các ông thành kẻ thắng cuộc. Thật các ông chẳng có chút tự trọng nào cả.

Tôi có bổn phận phải vạch trần những gian dối, lừa đảo của các ông bằng những chứng minh rõ ràng, minh bạch, có căn cứ, nguồn gốc, xảy ra sự việc.

Đó là tác phẩm: “TRẬN CHIẾN TÌNH BÁO, PHẢN TÌNH BÁO GIỮA VNCH/CIA VÀ TÌNH BÁO CỘNG SẢN HÀ NỘI”.

Đây không là một tác phẩm tiểu thuyết trinh thám như các ông đã viết về Mười Hương, về Vũ Ngọc Nhạ, về Phạm Xuân Ẩn, v.v. Mà đây đúng là một tập tài liệu về tình báo, vạch trần sự thật, những thảm bại của Tổng Cục 2 Tình Báo Chiến Lược, của Cục Binh Vận, Cục Đặc Công, khi đối đầu với chúng tôi, các cơ quan tình báo của hai nền Đệ I và Đệ II VNCH.

Tác phẩm này sẽ ra mắt đồng bào hải ngoại vào tháng 3 năm 2018, và bằng cách này hay cách khác, sẽ được luân lưu đến tận tay đồng bào trong nước như ba [3] tác phẩm của tôi trước đây: Biến Động Miền Trung – Huế Thảm Sát Mậu Thân 1968 – Thích Trí Quang Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân Tộc, để đồng bào trong nước thấy đâu là sự thật, đâu là sự dối trá của Đảng Cộng Sản Việt Nam và đồng thời nói lên sự thất bại nặng nề của Tổng Cục 2 Tình báo Cộng Sản Việt Nam các ông khi đối đầu với các cơ quan Tình báo Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi.

Trước đây các ông đã cho một nhân vật nữ tên gọi là Phong Lan, đạo diễn 12 tập Video phản biện lại tác phẩm Huế Thảm Sát Mậu Thân 1968 của tôi với lời lẽ chối tội:

“Trên sáu ngàn [6000] nạn nhân bị thảm sát tại Huế vào Mậu Thân 1968 là do bom đạn của Mỹ, Ngụy giết chết.”

Nhưng đã không thành công, không thể thuyết phục được đồng bào, bởi vì bom đạn nào giết chết đồng bào bằng những hố chôn sống hằng trăm nạn nhân với dây kẽm gai, dây điện trói hai tay?

Huế Thảm Sát Mậu Thân là một sự thật, Đảng Cộng Sản các ông đã dã man tàn sát trên sáu ngàn [6000] đồng bào Huế vô tội. Tôi đã viết ra sự thật đó với những chứng cớ rõ ràng rằng Hồ Chí Minh, Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam là thủ phạm, đã phạm tội ác chiến tranh, tội ác diệt chủng.

Nay tác phẩm “TRẬN CHIẾN TÌNH BÁO VÀ PHẢN TÌNH BÁO GIỮA VNCH/CIA VÀ TÌNH BÁO CỘNG SẢN HÀ NỘI” ra đời. Tôi mong mỏi các ông phản biện lại những gì các ông có thể. Theo thống kê những thảm bại của Tổng Cục 2 các ông sau đây.

 

NHỮNG CẤP CHỈ HUY CỦA TỔNG CỤC 2 TÌNH BÁO CHIẾN LƯỢC HOẠT ĐỘNG TẠI MIỀN NAM BỊ BẮT GIỮ:

1/ Thiếu tướng Trần Quốc Hương tự Mười Hương.

2/ Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ.

3/ Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn nội tuyến, làm việc cho C.I.A.

4/ Tù nhân quan trọng được Trung Tâm Thẩm Vấn của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa [Trung Tâm Thẩm Vấn Quốc Gia] giam giữ cho đến ngày 30/4/1975 là: Tư Trọng, Thiếu tướng, Thứ trưởng Công an Cộng Sản Bắc Việt đã bị bắt tại vùng biển Miền Tây trong khi xâm nhập vào lãnh thổ VNCH.

5/ Đại tá Lê Câu. Trưởng lưới tình báo tại miền nam Việt Nam.

6/ Trần Quang Thường vụ Tỉnh Đảng Bộ Quảng Trị. Trần Quang được Đảng Bộ Liên Khu 5 bổ nhiệm làm Trưởng lưới điệp báo từ Quảng Trị vào đến Phan Thiết và các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần.

7/ Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Cán Bộ Đặc Trách Khu ủy Sài Gòn.

8/ Tư Hùng, Cán Bộ Đặc Khu Sài Gòn. Toàn bộ là đảng viên cộng sản nằm trong Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu bị sa lưới Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung.

9/ Tư Lung, Thường Vụ Liên Khu ủy Liên Khu 5, gồm các tỉnh Đảng Bộ từ Quảng Trị đến Phan Thiết và Cao Nguyên Trung Phần. Nhiệm vụ của Tư Lung là điều hành và chỉ đạo mọi sách lược của Đảng Cộng Sản đối với các tỉnh vừa nêu trên. Tư Lung bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm bắt ngay tại đường Cống Quỳnh Sài Gòn vào năm 1958.

10/ Nguyễn Lâm, Trưởng Ban Điệp Báo Liên Khu 5, bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào cuối năm 1957 tại Sài Gòn.

11/ Minh Vân tức Đại tá Nguyễn Đình Quảng được Cục Tình Báo Chiến Lược Việt Cộng Hà Nội tung vào miền Nam theo những người di cư vào năm 1954. Y bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào năm 1958.

12/ Trần Tấn Chỉ, nguyên Phó Trưởng Ban Tình báo thành phố Hải Phòng, cán bộ chuyên nghiệp trong ngành Tình Báo Chiến Lược. Theo lệnh của Tổng Cục Trưởng Trần Hiệu y xâm nhập miền Nam hợp pháp, bằng cách nhập vào đoàn người di cư vào Nam 1954. Tại Sài Gòn y đã len lỏi vào làm việc tại cơ quan USIS của Tòa Đại Sứ Mỹ. Trần Tấn Chỉ bị Đoàn Công Tác Miền Trung phát giác hành tung và bắt giữ vào năm 1958.

13/ Đại tá Văn Quang tức Trang Công Doanh, cán bộ nòng cốt của Cục Tình Báo Chiến Lược. Đại tá Văn Quang theo đoàn người di cư vào Nam năm 1954. Y được Đặc Khu Sài Gòn – Chợ Lớn cộng sản đưa vào làm việc tại cơ quan USOM của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Sài Gòn. Đại tá Văn Quang bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào 1958.

14/ Lê Thanh Đường, Phái khiển Tình Báo, thuộc Cục Tình Báo Chiến Lược theo đợt di cư 1954 vào Nam. Nghề nghiệp hợp pháp tại Sài Gòn: Nhân viên Tổng nha Công Chánh tại Sài Gòn. Lê Thanh Đường bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào 1959.

15/ Tôn Hoàng, Phái khiển Tình Báo, Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Theo đợt di cư 1954 vào Nam. Tôn Hoàng bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt năm 1959.

16/ Dư Văn Chất, Phái khiển Tình Báo, Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Theo đợt di cư 1954 vào Sài Gòn. Chức vụ cũ của y là Trưởng Lưới Tình Báo. Dư Văn Chất bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958 tại Sài Gòn. Sau 1975, Dư Văn Chất giữ chức vụ Ủy Viên Thành Ủy Đảng Bộ TP/HCM kiêm Trưởng Ban Tuyên Huấn Thành Ủy.

17/ Nguyễn Văn Hội, Trưởng phòng Giao Thông Cục Tình Báo Chiến Lược. Trước 1954, Nguyễn Văn Hội là Trưởng Ban Điệp Báo của Liên Khu Ủy 5. Nhiệm vụ của Nguyễn Văn Hội là tổ chức hệ thống giao thông, giao liên của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt Cộng tại Việt, Miên, Lào. Nguyễn Văn Hội bị Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào năm 1958.

18/ Hoàng Hồ, Phái khiển Tình Báo, Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Hoàng Hồ là Chủ Nhiệm Tuần Báo Trinh Thám tại Sài Gòn. Hoàng Hồ bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt giữ. Sang Đệ Nhị Cộng Hòa, y là Dân Biểu.

19/ Trung tá Hoàng Kim Loan Tổng Cục 2 Tình báo Chiến Lược, Thành Ủy viên Thành Ủy Huế bị bắt vào tháng 5/1972 tại Huế.

20/ Cụm Tình Báo Chiến Lược A–22.

21/ Cụm Tình Báo Chiến Lược A–54.

22/ Cụm Tình Báo Chiến Lược A–26.

Ngoài ra, cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954–1955” của Bộ Quốc Phòng Hà Nội, Tập II (tr. 73–74) đã viết:

“Chỉ từ tháng 7–1955 đến tháng 2–1956, Mỹ–Diệm đã giết hại, giam cầm 93362 cán bộ, đảng viên và những người yêu nước. Cơ sở đảng, cơ sở quần chúng bị tổn thất nặng.

Ở Tây Nam Bộ, sau hai năm thực hiện đấu tranh chính trị, đã có một đồng chí Phó Bí Thư Xứ Ủy, 18 tỉnh ủy viên, 100 huyện ủy bị giết.

Tỉnh Thủ Đầu Một ta bố trí ở lại 1647 đảng viên chỉ còn 260. Tỉnh Gia Định 3000 đảng viên chỉ còn 350. Huyện Hàm Thuận (Bình Thuận) từ 656 đảng viên đến ngày 20-7-1955 chỉ còn 80 đảng viên, v.v.

Đặc biệt nghiêm trọng, do bị khủng bố dã man ở một số địa phương đã ra đầu hàng, tự thú với địch. Ở Bình Định, hầu hết đảng viên bị bắt đều khai báo tự nhận mình là đảng viên hoặc khai cho người khác. Hai huyện Nghĩa Hành và Đức Phổ (Quảng Ngãi), tính đến tháng 8-1955, có 80% đảng viên khai báo. Xã Phong Chương (Phong Điền, Thừa Thiên) có chi bộ 25 đảng viên, ra đầu hàng 24 còn một phải chạy trốn. Một số đảng viên không tin ở đấu tranh chính trị thành công đã dao động, chạy dài, tránh né công tác, thậm chí có người tập ăn nhạt, uống ít nước để nằm hầm bí mật được lâu…”

Báo Công An Nhân Dân ghi nhận: “Hầu như nhiều vùng ở Thừa Thiên mất trắng. Đa phần cán bộ ta đã bị chúng bắt, cơ sở bị xóa. Một số ít dạt ra miền Bắc, lên xanh hoặc chuyển công tác vào phía.”

Điều này đúng. Trên hơn ba ngàn [3000] cán bộ từ Tỉnh Ủy viên, Thành Ủy viên, Huyện Ủy viên, cán bộ an ninh Tỉnh, Thành, Huyện, cán bộ Đặc Công Thành, các Phái Khiển Tình Báo, cơ sở kinh tài, các đường giây, các trạm giao thông, liên lạc, của các ông, tất cả đều bị lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên–Huế phá vỡ, bắt giữ, và vô hiệu hóa.

Đặc biệt tháng 5/1972, từ cán bộ Phái Khiển Tình Báo Trung tá Hoàng Kim Loan, thuộc Tổng Cục 2 Tình báo Chiến Lược của các ông, cộng với hơn một ngàn năm trăm [>1500] cán bộ và hạ tầng cơ sở của các ông đã bị lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Chỉ Huy CSQG/Thừa Thiên–Huế bắt giữ và vô hiệu hóa, trong cuộc hành quân mang tên Chiến Dịch Bình Minh của BCH/CSQG/Thừa Thiên–Huế, nhằm chận đứng âm mưu Tổng Nổi Dậy của các ông tại Cố Đô Huế.

Hai ông thử xem lại hồ sơ cũ, báo cáo cũ, xem có một lần nào các ông thực hiện được một cuộc khủng bố như tấn công, hay đặt chất nổ trong thành phố Huế trong vòng gần mười năm trời từ 1966–1974 hay không? Chắc chắn 100% là không. Không phải các ông không có âm mưu, chủ trương, muốn thực hiện các cuộc tấn công, ám sát, đặt chất nổ, trong thành phố Huế. Các ông đã có mưu toan thực hiện nhiều lần, nhưng lần nào cũng bị lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt BCH/CSQG/Thừa Thiên–Huế phá vỡ, bóp nát từ trong trứng nước.

Tóm lại:

TRẬN CHIẾN TÌNH BÁO GIỮA TỔNG CỤC 2 CÁC ÔNG, VÀ CHÚNG TÔI CÓ THỂ NÓI MỘT CÁCH RÕ RÀNG, CHÍNH XÁC RẰNG:

NGƯỜI THẮNG CUỘC LÀ CHÚNG TÔI, CÁC CƠ QUAN TÌNH BÁO CỦA HAI NỀN ĐỆ I VÀ ĐỆ II VNCH, VÀ NHẤT LÀ NHỮNG CẢNH SÁT ĐẶC BIỆT CỦA NGÀNH ĐẶC BIỆT THUỘC BỘ TƯ LỆNH CẢNH SÁT QUỐC GIA VIỆT NAM CỘNG HÒA.

KẺ THUA CUỘC LÀ CHÍNH LÀ CỤC TÌNH BÁO CHIẾN LƯỢC CỘNG SẢN BẮC VIỆT CÁC ÔNG.

Điều mong ước của tôi là được tranh luận với các ông về tài liệu lịch sử này, bằng mọi phương tiện truyền thông dưới sự tham gia của đồng bào và báo chí, truyền hình, Việt Nam tại hải ngoại và quốc tế, tại bất cứ nơi đâu, Hoa Kỳ, Canada. Âu Châu, Úc Châu… ngoại trừ tại Việt Nam. Các ông dám không?

Mong lắm thay.



Liên Thành

-Nguyên Thiếu tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
-Nguyên Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế,
-Nguyên Tổng Thư Ký Điều hành Ủy Ban Phượng Hoàng Thỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế,

Hiện tại là:
Trung Tâm Trưởng
Trung tâm Điều Hợp Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng cộng sản Việt Nam.

P.O.BOX 6147
Fullerton, CA.92834. USA
Tele: (626)257-1057
Email: ubtttadcsvn68@gmail.com; nguyenphult1966@gmail.com

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Nhảy Dù WDC


Ưu Tiên Một Dù Cấp Bách – Từ Thức

Bài đọc suy gẫm: Ưu Tiên Một Dù Cấp Bách là bài viết … cấp bách về những trăn trở, đặt câu hỏi và cái nhìn, phân tách, nhận định của tác giả Từ Thức. Hình ảnh chỉ là minh họa.


Ngày 30/4: Tại sao 47 năm sau vẫn chưa có thay đổi ở Việt Nam?

Ngày 30 tháng Tư – Đã đến lúc đặt câu hỏi nhức nhối: Tại sao 47 năm sau vẫn chưa có thay đổi ở Việt Nam? Tại sao thế giới đã biến đổi không ngừng, với một vận tốc chóng mặt, nhưng Việt Nam vẫn ù lì, dẫm chân một chỗ, vẫn còn là một trong những nước hiếm hoi bám chặt, như đười ươi giữ ống, một chủ nghĩa đã bị nhân loại chối bỏ?

1001 lý do

Người ta đã nêu rất nhiều lý do, nhưng những lý do đưa ra có thực sự giải thích hiện tượng đáng buồn là chế độ Cộng sản vẫn đứng vững ở Việt Nam?

– Lý do lịch sử: Việt Nam là nạn nhân của chế độ thuộc địa, nhu cầu đòi độc lập, cuộc tranh đấu đòi tự do đã đẩy đất nước rơi vào quỹ đạo Cộng sản quốc tế. Tệ hại hơn nữa, quỹ đạo Trung Cộng. Nhưng rất nhiều quốc gia đã là nạn nhân của chế độ thuộc địa, rất ít rơi vào rọ. Rất nhiều quốc gia đã bị chủ nghĩa Cộng sản cám dỗ lúc đầu, nhưng thức tỉnh kịp thời.

– Lý do địa lý: Việt Nam có cái bất hạnh là ở sát cạnh nước Tàu, nhưng Việt Nam không phải là trường hợp duy nhất. Trung Cộng giáp ranh với 14 quốc gia.

– Lý do chính trị: Chế độ Cộng sản tàn bạo, cai trị bằng khủng bố, cái sợ trở thành một bản năng để sống còn, một dân tộc tính; chính sách ngu dân, nhồi sọ của Cộng sản đã thành công trong nghĩa vụ biến người dân thành một đàn cừu.

Nhưng chế độ độc tài nào cũng tàn bạo, tàn bạo là một định nghĩa của độc tài. Điều đó đã không ngăn được các chế độ độc tài thi nhau sụp đổ. Chế độ Cộng sản nào cũng cai trị bằng khủng bố, tẩy não, điều đó đã không ngăn được Xô Viết Nga tan rã, bức tường ô nhục Berlin sụp đổ, các nước Đông Âu tìm được tự do.

– Lý do văn hoá: Văn hoá VN, đặc biệt là văn hoá Khổng giáo, đã khiến người Việt phó mặc chuyện chính trị cho vua quan, chỉ lo việc gia đình. Nhưng văn hoá Á Đông đã không cấm Nhật Bản trở thành một cường quốc, văn hoá Khổng giáo, đã không cản Đài Loan, Đại Hàn trở thành những nước dân chủ kiểu mẫu.

Văn hoá gia đình rất cao ở Do Thái (từ ngữ “người mẹ Do Thái” (la mère juive) là biểu tượng của văn hoá gia đình rất nặng của dân tộc này), đã không cấm người Do Thái có tinh thần quốc gia rất cao.

Tóm lại, những vấn đề nêu trên có thực, nhất là khi nó tụ hợp tất cả trên đầu một dân tộc (sẽ đi sâu hơn trong một bài khác), đã đóng góp vào đại hoạ chung, nhưng không đủ để giải thích tại sao gần nửa thế kỷ sau ngày 30/4/75, vẫn không có thay đổi lớn tại Việt Nam, bất chấp những yếu tố khách quan khiến người ta nghĩ, đáng lẽ Cộng sản phải sụp đổ.

Ảnh: Dân và quân VNCH bị quân CSVN bắt giữ, đi bộ trên đường phố Sài Gòn sau khi

Yếu tố khách quan

Những yếu tố khách quan khiến chế độ độc tài đáng lẽ phải khốn đốn:

– Internet, Facebook, nói chung mạng lưới xã hội, khiến thông tin khó bị bưng bít, sự thực khó che giấu, tẩy não khó thành công.

– Lưu thông, du lịch toàn cầu dễ dàng, khiến người Việt (khác với người Bắc Hàn) có cơ hội tiếp xúc với thiên hạ, để ý thức được thân phận cá chậu, chim lồng của chính mình.

– Trên 4 triệu người Việt sống ở nước ngoài, nhiều người về nước thường xuyên, trao đổi với gia đình, bè bạn, khiến những trò tuyên truyền rẻ tiền đối với người dân trong nước trở thành lố bịch.

– Nhờ kinh tế toàn cầu, kinh tế khả quan hơn ngày xưa, một giai cấp trung lưu ra đời. Trên lý thuyết, giai cấp trung lưu là động lực chính cho các phong trào dân chủ. Họ đủ sống để hết lệ thuộc cơm áo, đủ trình độ để có nhu cầu đòi hỏi tự do, không thuộc guồng máy Đảng để hết lòng bảo vệ chế độ. Ở những nước bình thường, một giai cấp trung lưu đông đủ là điều kiện tối cần cho thể chế dân chủ.

– Một nửa dân tộc, sống ở miền Nam trước 75, có kinh nghiệm sống để so sánh một xã hội trong tay Cộng sản, vói một xã hội tự do.

– Sau nửa thế kỷ xâm chiếm miền Nam, người Cộng sản đã lộ nguyên hình là một bọn cướp ngày, một mafia đỏ, buôn dân bán nước.

– Bất công xã hội, tham nhũng tới độ kinh hoàng, đã phơi bày trước mắt mỗi người, qua những căn “lều của đầy tớ”, nghĩa trang bao la của lãnh tụ, đời sống phè phỡn, bất nhân của giới cầm quyền.

– Môi trường, danh lam thắng cảnh bị tàn phá một cách khủng khiếp để làm kinh tài.

– Công nhân, phụ nữ bị bán, xuất cảng như những nô lệ.

– Tôn giáo bị đàn áp, luân lý rã rời, xã hội tan rã.

– Tai hoạ lệ thuộc Trung Cộng càng ngày càng lớn, hiểm hoạ mất nước càng ngày càng gần. Người Việt có bệnh chia rẽ kinh niên, nếu có điều gì đồng thuận, đó là tinh thần chống Tàu, trong khi tập đoàn cầm quyền tình nguyện làm tay sai cho Bắc Kinh.

Tất cả những yếu tố khách quan đó, quá đủ, đáng lẽ phải đưa đến sự sụp đổ nhanh chóng của chế độ.

Nhưng sự thực phũ phàng là chế độ vẫn đứng vững.

Kỷ niệm 47 năm ngày mất miền Nam, đến lúc chúng ta phải đặt câu hỏi, khẩn cấp, không nhân nhượng, không né tránh: tại sao Cộng sản chưa sụp đổ, tại sao chưa có một thay đổi gì về chính trị, dân chủ, dân quyền ở Việt Nam?

Nhà tù không tường

Tại sao, bất chấp những yếu tố bất lợi nói trên, tập đoàn cầm quyền Hà Nội vẫn xây được cái mà Aldous Huxley gọi là nhà tù khổng lồ không tường, để giam 90 triệu tù nhân?

Aldous Huxley: “Nhờ kiểm soát tư tưởng, nhờ khủng bố thường trực để giữ cá nhân dưới sự phục tòng, ngày nay chúng ta đã bước vào một chế độ độc tài hoàn hảo nhất, một chế độ có bề ngoài dân chủ, một nhà tù không tường, trong đó tù nhân không nghĩ tới chuyện vượt ngục, không nghĩ tới chuyện lật đổ bạo chúa. Một chế độ nô lệ, trong đó, nhờ được tiêu thụ, được giải trí, những người nô lệ đâm ra yêu thích tình trạng nô lệ của mình” (1).

Huxley không nói gì khác hơn Juvénal đã nói từ thời đế quốc La Mã: hãy cho dân bánh mì và các trò chơi (panem, circenses), họ sẽ hài lòng, bỏ quên mọi chuyện, vua chúa tha hồ cai trị.

Thời La Mã, ngoài bánh mì và trò chơi, lý thú nhất là trò giác đấu giữa các nô lệ.

Ngày nay giác đấu (gladiateurs) được thay bằng football, games đủ loại, bánh mì thay bằng ăn nhậu, tiêu pha, mua sắm.

Dân không đòi hỏi gì hơn.

Được “đi bão” sau một trận bóng tròn, được xếp hàng ăn Mc Donald’s, mua giầy Nike, Adidas, tuổi trẻ thấy mình có đủ tự do, hạnh phúc.

Ai đã không nghe người Việt trong nước khoe, một cách hãnh diện: “Ở VN ngày nay không thiếu gì cả, ông ơi. Có tiền là có mọi thứ”. 

Ít người nghĩ: thiếu một thứ, đáng quý hơn cả, là tự do, là cái hãnh diện được suy nghĩ, hành động như một con người có nhân phẩm, một con người có quyền làm người. Đáng gọi là con người.

Một chế độ độc tài cũng có thể làm thoả mãn nhu cầu vật chất của chúng ta, nhưng chúng ta không phải là súc vật, chỉ có nhu cầu vật chất.

Cộng sản đã thành công trong việc đào tạo một thế hệ bạc nhược, hèn yếu, vô cảm, vô trách nhiệm, ích kỷ, vô luân, thụ động.

Gramsci và thuyết “thống trị văn hoá”

Antonio Gramsci (1891-1937)

 Để giải thích hiện tượng CS chưa có gì thay đổi ở VN, dân chủ tự do vẫn là chuyện xa vời, có lẽ phải mượn lý thuyết Gramsci. Theo Gramsci, văn hoá giải thích tất cả.

Muốn có cải cách chính trị, phải có nền móng văn hoá, những yếu tố khác, thí dụ kinh tế, chỉ là thứ yếu. Muốn thay đổi xã hội, không thể hà tiện một cuộc cách mạng văn hoá, thay đổi tư duy. Nếu không, nếu có biến chuyển, chỉ là những cuộc đảo chánh, những thay đổi nhất thời, những cuộc nổi loạn, sau đó sẽ đâu trở lại đó.

Theo Gramsci, có 2 điều kiện để người dân tích cực tham gia cách mạng:

1. Cùng chung một ý thức hệ

2. Tin rằng thay đổi sẽ có hậu quả tốt cho chính mình

Antonio Gramsci (1891-1937) là một lý thuyết gia thiên tả người Ý, trước đây là cẩm nang tranh đấu cho các phong trào cách mạng trên thế giới, ngày nay là sách gối đầu giường cho các chính trị gia thuộc mọi khuynh hướng, từ tả sang hữu, nhất là ở Âu Châu.

Tại Pháp chẳng hạn, phe cực hữu, đã mở một trường học ở Lyon để đào tạo cán bộ, vì đồng ý với Gramsci là nếu không tạo một nền móng văn hoá vững chắc, nếu tư tưởng quốc gia cực đoan của họ không ăn rễ trong dân chúng, dù họ có thắng cử cũng chỉ là những thắng lợi bề mặt, nhất thời.

Tạm tóm tắt lý thuyết Gramsci qua 2 chữ “hégémonie culturelle” (thống trị văn hoá) (2).

Muốn tiến tới chính quyền và đứng vững lâu dài, phải đi tới thống trị văn hoá.

Biểu tình về “biến đổi khí hậu” tại Pháp đến từ Xã hội dân sự.

“Gramsci phân biệt xã hội ra 2 thành tố mà ông gọi là 1.Société politique, hay pouvoir politique (xã hội chính trị, quyền lực chính trị ) và 2. Société civile (Xã hội dân sự) .

Quyền lực chính trị, bao gồm các cơ chế nhà nước, bộ máy chính quyền: chính phủ, quân đội, công an, cảnh sát… Xã hội dân sự, là tất cả những gì thuộc địa hạt tư nhân, lãnh vực tinh thần, sở hữu của mỗi cá nhân, địa hạt của văn hoá, tôn giáo, tri thức, đạo đức, nhân sinh quan, triết lý sống tiềm tàng trong một xã hội. Tóm lại: Tư duy của một dân tộc.

Lật đổ một chính phủ, một tập đoàn cầm quyền, chiếm pouvoir politique, chỉ là một cuộc đảo chánh.

Muốn bền vững, muốn thay đổi xã hội, phải đấu tranh và chiến thắng trên địa hạt văn hóa, phải nắm société civile, phải thay đổi tư duy. Phải đặt một nền tảng văn hóa mới.

Chính quyền phải được một sự hậu thuẫn ngầm, đương nhiên, của một xã hội cùng chia sẻ những giá trị tinh thần tiềm tàng, sâu kín trong tiềm thức của một dân tộc.

Gramsci giải thích tại sao cách mạng “vô sản” chỉ thành công ở Nga nhưng thất bại ở Âu Châu. Bởi vì trong xã hội Nga, và nói chung, xã hội Đông Phương, nhà nước là tất cả, xã hội dân sự còn sơ khai, chỉ cần chiếm vài cơ sở huyết mạch là chiếm được quyền lực.

Trái lại, các nước Tây phương, xã hội dân sự, nói khác đi, quyền lực văn hoá phức tạp, sâu xa (với văn chương, nghệ thuật, triết học…), xã hội dân sự phong phú (với các hội đoàn, các nghiệp đoàn, báo chí, đảng phái…), nắm được chính quyền không dễ, áp đặt một chế độ mới là chuyện không thể xẩy ra.

Chính vì vậy, Cộng sản chỉ cần chiếm vài cơ sở chính yếu ở Nga đã thành công trong cách mạng 1917, người dân hầu như không hay biết gì. Nhưng sau đó, vì không có cỗi rễ văn hóa, không có sự đồng thuận tư duy, Staline không có cách gì khác hơn để duy trì quyền lực là sự khủng bố (terreur).

Không có đồng thuận, nhà nước phải dùng terreur. Nhưng người ta không xây dựng gì trên sự khủng bố. Tất cả tài nguyên, nhân lực quốc gia chỉ dành cho ưu tiên hàng đầu: củng cố guồng máy đàn áp. Guồng máy quốc gia tê liệt, kinh tế khủng hoảng, luân lý suy đồi, xã hội băng hoại (Từ Thức. Gramsci: tất cả là một vấn đề văn hoá).

 Hai mục tiêu

Áp dụng lý thuyết Gramsci, chúng ta có thể kết luận, sở dĩ chưa có thay đổi ở VN, Cộng sản vẫn đứng vững, bởi vì:

1. Văn hoá dân chủ chưa thực sự ăn sâu trong đầu óc dân Việt.

2. Đa số dân chưa tin những thay đổi chế độ sẽ cải thiện đời sống của mình.

Bổn phận của những người tranh đấu cho tự do, dân chủ là phải đóng góp vào việc thực hiện hai mục tiêu đó.

Đó không phải là điều dễ, bởi vì người ta chỉ thực sự tha thiết với dân chủ khi đã sống trong một xã hội dân chủ. Có người nói: “nếu chưa ăn táo, bạn sẽ không nhớ, không thèm táo”.

Dân không tin thay đổi chế độ sẽ cải thiện đời sống của họ.

Tuyên truyền, nhồi sọ đã khiến người dân trong các nước độc tài hài lòng với đời sống của mình. Dân Bắc Hàn tin là nhờ cha con họ Kim mà dân Hàn khỏi đói khổ như các dân tộc khác trên thế giới. Dân Nga tin là nhờ Putin mà khỏi đói như thời Staline. Rất nhiều người Việt nghĩ ở VN ngày nay không thiếu gì, miễn là có tiền, và mục đích ở đời là kiếm tiền.

Nếu không đi tới mục tiêu đó, bằng bất cứ giá nào, dưới bất cứ hình thức nào (hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội, media, văn học, nghệ thuật…), sẽ không hy vọng thực sự có thay đổi lớn ở VN.

Có người sẽ phản kháng: đó là việc làm quá lâu dài, trong khi tình trạng khẩn cấp như hoả hoạn. Nhưng làm những việc khẩn cấp để chống độc tài không cấm người ta làm những việc lâu dài hơn, khi ý thức đó là chuyện cơ bản. Tướng Pháp Lyautey nói với quân sĩ: “hãy đi từ từ, chúng ta gấp lắm đấy”.

Chiến tranh vị trí

Theo Gramsci, đấu tranh không còn là những cuộc giáp chiến, nhưng là những cuộc chiến văn hoá, tranh thủ trí não, mỗi phe tìm cách bành trướng ảnh hưởng của mình.

Yếu tố quyết định của trận chiến đó, Gramsci gọi là “guerre de position”chiến tranh vị trí), trái với “guerre de mouvement” (chiến tranh di động). Trong chiến tranh vị trí, võ khí là văn hóa. Văn hoá được coi là địa bàn hoạt động, bộ tổng tham mưu.

Khi tư duy đó đã trở thành mẫu số chung, người dân sẽ phân tách thời cuộc, thời sự, lịch sử dưới lăng kính đó. Người dân sẽ hành động dưới lăng kính đó. Đưa những dữ kiện khách quan không đủ thuyết phục, phải thay đổi tư duy.

Nếu người dân còn bị nhồi sọ, họ sẽ tìm mọi cách bào chữa cho chế độ. Trước những bằng chứng hiển nhiên về những tệ hại trước mắt, họ sẽ chui vào chỗ ẩn náu cuối cùng, nghĩ đó chỉ là lỗi lầm của lãnh tụ này, bộ trưởng kia, không phải lỗi của chế độ. Trong bất cứ trường hợp nào, việc thay đổi tư duy vẫn là mẫu số chung, không thể gạt sang một bên, chờ một lúc khác

Theo Gramsci, chế độ sẽ và chỉ sụp đổ khi nền tảng lung lay, và nền tảng chỉ lung lay khi đa số dân chúng chối bỏ xã hội đang sống, đồng thuận về một xã hội tương lai.

Từ sóng ngầm tới đột biến

Nghiên cứu những cuộc cách mạng, người ta thấy có 3 yếu tố khiến một chế độ sụp đổ:

1. Làn sóng ngầm (sự bất mãn, căm thù tiềm tàng trong lòng dân)

2. Đột biến (một cơ hội, một sự kiện thời sự nào đó khiến đợt sóng ngầm bùng nổ)

3. Lãnh đạo (hay các tổ chức đã chuẩn bị từ lâu, để hướng dẫn các đột biến đi tới mục tiêu.

Tới nay, hầu hết người Việt chống Cộng chỉ ngồi chờ đột biến.

“Người ta có thể rút tỉa gì từ Gramsci? Khi nào tư duy của một dân tộc bị nhồi sọ gần một thế kỷ chưa thay đổi, chuyện thay đổi sẽ còn gian nan. Có thể những người bất mãn với chế độ Cộng sản càng ngày càng đông, nhưng người ta khó xây dựng gì vững vàng trên sự chống đối. Chỉ có thể xây dựng xã hội mới trên tư duy mới, khi đa số tin tưởng ở những giá trị mới.

Người dân chỉ chủ động trong việc xây dựng dân chủ, khi nghĩ dân chủ sẽ thay đổi cụ thể đời sống cuả mình, tương lai của con cháu mình. Khi nào những ý niệm dân chủ chỉ là những khẩu hiệu, sự thờ ơ vẫn còn, và chính sách khủng bố vẫn hữu hiệu.

Tóm lại, mặt trân văn hóa luôn luôn là một ưu tiên, ngay cả trong hoàn cảnh cấp bách.

Ismaïl Kadaré, nhà văn hàng đầu của Albanie, nói: ngay cả trong những lúc khốn cùng, người ta cũng phải có thái độ trân trọng đối với văn hóa” ( Từ Thức. Gramsci: tất cả là một vấn đề văn hoá).

Mặt trận tư duy

Có người sẽ phản kháng: đó là việc làm quá lâu dài, trong khi tình trạng khẩn cấp như hoả hoạn. Nhưng làm những việc khẩn cấp để chống độc tài không cấm người ta làm những việc lâu dài hơn, khi ý thức đó là chuyện cơ bản. Tướng Pháp Lyautey nói với quân sĩ: “hãy đi từ từ, chúng ta gấp lắm đấy”.

Đáng lẽ việc vận động để thay đổi tư duy là chuyện của trí thức.

Rất tiếc, VN không có một “intelligentsia” (hàng ngũ trí thức), được coi như lương tâm của dân tộc, có đủ kiến thức, và uy tín, để soi đường cho dân tộc.

Trong tình huống đó, việc vận động để thay đổi tư duy là nghĩa vụ của mỗi người.

Trên địa hạt của mình, với khả năng của mình, mỗi người có thể đóng góp vào cuộc tranh thủ tư duy. Không thể giao chiến để chiếm đất, người ta có thể, và phải giao chiến trên địa hạt trí não. Nghe có vẻ viển vông, nhưng từ cổ chí kim, tư duy vẫn dẫn dắt nhân loại, đi tìm thiên đàng hay xuống địa ngục.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links:

Báo Tiêng Dân

Văn Hóa Vụ 

______

Chú thích:

(1) Grâce au contrôles des pensées, à la terreur constamment martelée pour maintenir l’individu dans un état de soumission voulu, nous sommes aujourd’hui entrés dans la plus parfaite des dictatures, une dictature qui aurait les apparences de la démocratie, une prison sans murs dont les prisonniers ne songeraient pas à s’évader, dont ils ne songeraient même pas à renverser les tyrans. Système d’esclavage où, grâce à la consommation et au divertissement, les esclaves auraient l’amour de leur servitude’’. Aldous Huxley. Le Meilleur Des Mondes.

(2) Antonio Gramsci. Cahiers de prison.


Chúng Tôi Muốn Sống – Vĩnh Noãn

 Bài đọc suy gẫm: Phim lịch sử khá vĩ đại “Chúng Tôi Muốn Sống” của VNCH nổi tiếng một thời vì lột trần được bộ mặt thật của cộng sản Việt Nam, điển hình là cuộc cải cách ruộng đất với chủ trương đầy ác độc, ghê rợn, giết hại hàng trăm ngàn người dân, và cuộc vượt thoát ly kỳ khỏi bức màn sắt. Phim được thực hiện với những chi tiết sống động qua lời kể của Đạo diễn Vĩnh Noãn. Hình ảnh sưu tầm trên net chỉ mang tính cách minh họa.

 Đầu năm 1954, tôi còn hoạt động trong ngành điện ảnh tại Paris cùng với nhóm Les Films de l’Oliviẹr. Nhân dịp có phái đoàn Việt Nam sang hội nghị với Pháp đang ngụ tại khách sạn Lutecia ở Paris, tôi đến thăm để có dịp gặp lại nhiều người quen như bác sĩ Phan Huy Quát, các ông Bùi Diễm, đại tá Lê văn Kim, Nguyễn Quang Nhạ và nhân viên phụ tá.

Công việc điều đình với chính phủ Pháp vẫn còn kéo dài nên bác sĩ Quát, lúc đó là tổng trưởng bộ Quốc Phòng, ngỏ ý muốn mời tôi về Việt Nam để giúp quân đội thực hiện vài cuốn phim dài chống Cộng. Đại tá Lê văn Kim cũng có nhiều liên hệ với nền điện ảnh Pháp nên đã giới thiệu thêm vài chuyên viên khác, như đạo diễn Jean Leduc và Jacques Lang, cùng theo tôi về Saigon để lo làm các loại phim tài liệu ngắn.

Về Việt Nam mới được vài tháng, chưa tổ chức xong việc quay phim và chưa tìm đủ các phương tiện cùng dụng cụ chuyên môn cần thiết, thì được tin quốc trưởng Bảo Đại đã chọn ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng thay thế Hoàng thân Bửu Lộc. Bác sĩ Phan Huy Quát mời tôi lên văn phòng, cho hay là ông sẽ không còn làm tổng trưởng Quốc Phòng trong chính phủ mới, nên hỏi xem ý tôi muốn làm gì trong tương lải. Tôi trình bày là hiện nay tôi đã bắt đầu thảo ra một chuyện phim để phổ biến cho dân chúng hiểu về chế độ Cộng Sản, nhưng tôi cần phải nghiên cứu thêm rất nhiều tài liệu và chi tiết.

Vì ông Quát không còn ở trong chính quyền nên mất đi cơ hội làm phim, tôi xin phép trở lại Pháp để tiếp tục hoạt động trong ngành điện ảnh tại đó.

Máy bay Air France chở tôi về đến Paris đêm 14 tháng 7 cùng năm, vào đúng ngày lễ Độc Lập lớn của Pháp và cũng là ngày sinh nhật của tội. Nhìn thấy thiên hạ ăn mừng và khiêu vũ ngay ở ngoài đường rất nhộn nhịp, tôi cũng cảm thấy vui lây, bớt bực mình vì công việc không thành tại quê nhà.

Tuy nhiên sau đó, ý nguyện thực hiện cuốn phim chống Cộng vẫn đeo đuổi tôi, vì từ lúc còn là sinh viên tại Hà Nội năm 1945, tôi đã nếm mùi tra tấn của Cộng sản lúc bị tụ.  Lý do là tôi đã cùng với nhóm anh em trong Đông Dương Học Xá, không chịu chấp nhận đổi tên của tổ chức Tổng Hội Sinh Viên thành Tổng Hội Sinh Viên Cứu Quốc, vì biết chữ “Cứu Quốc” chỉ là một danh từ trá hình của Cộng Sản.

Khi viết xong bản thảo cho câu chuyện phim, tôi trở lại Saigon vào đầu năm 1955 để tìm cách thực hiện ước vọng của mịnh. Tôi tìm đến ông Bùi Diễm và bác sĩ Phan Huy Quát, lúc đó không còn ở trong chính quyền nữa, nhưng họ là những phần tử quốc gia chống Cộng, lại đang được rảnh rang, nên tôi mong họ có thể hợp tác được.

Cuốn phim tôi muốn thực hiện khá vĩ đại đối với Việt Nam, và sự tốn kém sẽ lên quá cao so sánh với các phim trong nước, Vì vậy cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề nan giải:

– Lo có số tiền chi tiêu cho mọi việc, từ lúc chuẩn bị quay phim cho đến khi hoàn thành, chi phí về quảng cáo và ẩm thực cho đoàn quay phịm

– Tìm kiếm các dụng cụ máy móc về phần chuyên môn, như máy quay phim, máy thâu thanh, máy phát điện, đèn cỡ lớn, và xe cộ để chuyên chở vân vận

– Mướn chuyên viên, tuyển lựa các tài tử đóng phim, và hằng ngàn dân di cư phụ diển

– Vận động sự giúp đỡ của quân đội về việc sử dụng súng đạn, máy bay, xe thiết giáp, các loại xe quân sự, chất nổ dùng trong lúc thực hiện các trận đánh, và việc tổ chức an ninh cho đoàn quay phịm

– Muốn quay loại phim 35 ly cho dúng tiêu chuẩn quốc tế, tiền ngoại tệ cần phải có khá nhiệu Việc mua cùng in rửa phim và làm ráp nối sẽ rất tốn kém, vì tất cả đều phải làm tại ngoại quộc. Việt Nam lúc đó chưa có phim trường và các máy móc dùng cho loại phim cỡ lớn này.

Thực hiện một phim có tánh cách chống Cộng, trước tiên là đi vận động để được sự giúp đỡ của chính quyền và phòng điện ảnh Hoa Kỳ. Về phía Việt Nam thì không có sự khích lệ nào đáng kể, vì có lẽ chính phủ Ngô Đình Diệm đang có nhiều vấn đề quan trọng khác cần làm, nhất là họ còn phải đương đầu với các tổ chức đối lập trong nước vào thời gian đó.

Nhờ hồi trước lúc làm việc tại bộ Quốc Phòng, tôi có quen với ông Charlie Mertz, giám đốc phòng điện ảnh Hoa Kỳ. Lúc trình bày ý định thực hiện cuốn phim dài chống Cộng và mong được sự giúp đỡ, ông Mertz thích thú ngồi nghe tôi kể sơ lược chuyện phim và hứa sẽ sốt sắng tận tình làm mọi việc trong quyền hạn của mình, với điều kiện là cần có một bản chuyện phim loại phân cảnh bằng Anh ngữ (shooting script) để hiểu rõ nhu cầu nào ông có thể trợ giúp được.

Tôi cũng đem mấy vấn đề khó khăn cần giải quyết đã nói trên ra bàn với ông Mẹrtz. Ông ta có ý kiến là sau khi chuyện phim được chấp thuận, tôi cần phải cùng ông đi qua Phi Luật Tân để giải quyết về vấn đề chuyên viên và máy móc cùng phim trường. Theo ý ông, thì nên tìm thêm một hãng phim tại đấy để làm chung (co- production), nếu họ thích chuyện phim này và nhận thấy có ích lợi cho nước họ, vì trong thời kỳ ấy phong trào chống Cộng tại Phi cũng đang bành trượng. Được như vậy thì mọi chi phí, về dụng cụ và chuyên viên hay in rửa phim, đều do Phi Luật Tân đài thọ.

Tôi trở về bàn tính với ông Bùi Diễm là đã thấy ánh sáng ở cuối đường hầm rồi, vì nếu chuyện phim được chấp nhận thì phần Việt Nam chỉ phải lo cho tiền chi tiêu trong thời kỳ quay phim mà thôi, còn lại các vấn đề tốn kém quan trọng về ngoại tệ đều đã có các tổ chức khác chịu.

Chúng tôi thành lập hãng phim Tân Việt Điện Ảnh, trong đó có bốn người: ông Bùi Diễm, bác sĩ Phan Huy Quát, thương gia Nguyễn Hữu Đạo và tôi.  Ba người trên lo vấn đề tài chánh và tôi thì phụ trách phần thực hiện và viết chuyện phịm.

Lúc đó áp dụng theo hiệp ước ký kết tại Genève năm 1954, phong trào di dân chống Cộng từ Bắc vào Nam đang rầm rộ xúc tiến. Tôi chọn Đà Lạt vì có các trại di cư ở quanh vùng đó, và đến ngụ tại khách sạn Langbian để viết phần phân cảnh cho chuyện phịm.

Trong hai tháng, mỗi ngày tôi đều xuống các trại định cư, nghe họ kể lại cảnh tố khổ hay các việc kinh hoàng dã man đã xẩy ra dưới chế độ Cộng sản. Ghi chép các tài liệu đó cho đến chiều tối trở về, tôi lại bổ túc thêm cho chuyện phim thành hấp dẫn hơn, nhưng phải loại bỏ những cảnh quá tàn nhẫn không thể đem lên màn bạc được.

Chuyện phim và phần phân cảnh được hoàn thành xong, tôi liền trở về Saigon để cấp tốc dịch ra tiếng Anh cùng với các anh em Việt Nam làm tại phòng điện ảnh Hoa Kỳ.

Ông Charlie Mertz muốn góp ý kiến là vào cảnh cuối cùng, lúc đại úy Vinh vượt biên và được tàu chiến của hải quân cứu ở ngoài biển, ông đề nghị chiếc tàu đó treo cờ Mỹ! Tôi đã từ chối và nói rằng làm vậy thì như quảng cáo bán “Coca Cola”, sẽ mất giá trị của cuốn phim đối với dân chúng. May thay ông ta không cứng đầu, và đã đồng ý mời tôi cùng đi qua Phi Luật Tân để vận động giải quyết về phần kỹ thuật.

– Ở Manila hơn một tuần lễ, các hãng phim của Phi biết được tin đăng trên báo nên đã liên lạc và đón tiếp tôi rất nồng hậu trong các buổi tiếp tân của họ, cũng như buổi tiệc do đại sứ Cao Thái Bảo tổ chức tại sứ quán Việt Nam, hay hôm gặp gỡ báo chí và các minh tinh điện ảnh Phi do phòng thông tin Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân tổ chức.

Chuyến đi Manila rất thành công, một hãng phim Phi do ông Manuel Conde làm giám đốc nhận lời làm chung (co-production) với Việt Nạm. Chuyên viên và máy móc quay phim do họ đóng góp, còn phần mua và in rửa phim thì được sự trợ giúp của Hoa Kỳ. Khi cuốn phim thực hiện xong họ được có toàn quyền trên thị trường Phi, còn lại tất cả trên thế giới là của Việt Nạm. Phía Phi Luật Tân họ lấy tên cuốn phim là “Fire and Shadow”, vì chuyện được sửa đổi để theo đúng tinh thần dân tộc Phi, thiên nhiều về đạo Ki Tô, và sẽ do ông Conde làm đạo diễn.



Phía Việt Nam thì chọn tên Chúng Tôi Muốn Sống và do tôi phụ trách. Tiện đây, tôi xin trình bày thêm là sau cuộc trưng cầu ý kiến của trên mấy trăm người, phần đông là dân chúng ở tại Saigon đã lựa tên Chúng Tôi Muốn Sống trong số sáu tên phim được đưa ra, như “Gió và Lửa”, “Tình và Máu”, “Sóng Đỏ trên đất lành”, “Giông tố” vân vân.

Trở về Saigon, vấn đề cuối cùng là cần phải có sự trợ giúp của quân đội Việt Nạm. Ông Bùi Diễm lúc đó làm giám đốc sản xuất cho Tân Việt Điện Ảnh, có quen nhiều với đại tá Edward Lansdale, đang làm cố vấn tối cao cho tổng thống Ngô Đình Diệm, nên ông vận động nhờ ẸL nói giúp, vì chính phủ tỏ vẻ thờ ơ với việc thực hiện phim nạy. Có lẽ vì ông Diễm và bác sĩ Quát là Đại Việt, không cùng “phe ta”, mà lại muốn làm điện ảnh chống Cộng để lấy ảnh hưởng trong dân chúng, nên chính phủ Diệm e ngại chẳng.

Tuy vậy sau đó, thiếu tướng Trần Văn Đôn, khi ấy làm tham mưu trưởng quân đội, cho tôi hay là đã chỉ định thiếu tá Nguyễn văn Cư cùng một số sĩ quan đi theo cộng tác với đoàn quay phịm. Mọi nhu cầu cần đến sự yểm trợ của quân đội, thì thiếu tá Cư sẽ liên lạc trực tiếp với bộ Quốc Phòng.

Như vậy, xem như đã giải quyết xong các vấn đề trong giai đoạn vận động và chuẩn bị, bây giờ thì đến lúc phải lo về phần thực hiện cuốn phịm.

Phái đoàn Phi Luật Tân gồm có các tài tử và chuyên viên, tất cả chừng hai mươi ngượ`i. Họ quyết định sẽ đến Saigon trong hai tuần lễ sau, và đem theo các dụng cụ máy móc: camera quay phim là loại Mitchell 35 ly thường dùng trong các phim trường quốc tế, hoàn toàn yên lặng lúc máy chạy, rất cần vì phải lấy âm thanh tại chỗ (direct sound recording). Phần thâu thanh thì dùng máy Ampex với băng cỡ 16 ly chạy cùng tốc độ với camera để tiện cho việc ráp nối sau này. Hồi đó việc thâu lời đối thoại cho ăn khớp (Sỵnc) cùng đúng với lúc tài tử nói thật rất khó làm, chứ không dễ dàng như quay loại video-camera hiện nạy.

Thâu thanh tại chỗ thì cần phải có máy phát điện lớn chạy thật êm, phía Phi Luật Tân không thể đem qua được vì quá nặng nề, nên bên phần Việt Nam phải tự lo liệu lấy.

Quân đội ta có nhiều máy phát điện nhưng động cơ lại rất ồn. Tôi phải giải quyết vấn đề ấy, bằng cách cho hàn thêm mấy ống bô xe hơi liên tiếp sau ống khói của máy phát điện, và khi sửa xong, máy chạy nghe thật rất ệm.

Phía Việt Nam cần phải gấp rút tuyển lựa tài tử cho kịp lúc quay phịm. Đặc biệt là thời đó chưa có tài tử chuyên nghiệp, nên tất cả diễn viên đều đóng phim lần đầu tiên trong đời họ. Người Việt Nam ta rất có khiếu về vấn đề này, ngay như đạo diễn lừng danh trên thế giới là ông Joseph L. Mankiewicz, lúc đến Saigon quay phim The Quiet American (Người Mỹ Trầm Lặng) vào đầu năm 1957, mà tôi làm người cộng tác sản xuất cho ông ta ăssociate-producer), cũng công nhận việc diễn xuất rất tự nhiên của các vai phụ tại đây, nhất là không bao giờ ai liếc trộm vào ống kính quay phim, khi họ đã được báo trước là không nên làm việc đó.

Vai chánh nam, đại úy Vinh do Lê Quỳnh đóng, phần hai vai chánh nữ thì lúc diễn xuất thử, Mai Trâm thích hợp với vai Lan vì nét mặt hiền hậu, và vai nữ cán bộ đanh đá, lại hợp cho Thu Trang hơn.

Còn lại các vai phụ như

– Công tố ủy viên: Nguyễn Long Cương

– Đội trưởng đoàn đấu tố Cộng sản: Nguyễn Đức Tạo

– Ủy viên chính trị: Lê Giạng

– Công an: Trần văn Nhơn, và nhiều vai khác mà tôi không còn nhớ tện

Phần chuyên môn về Quay phim: Emanuel Rojạs

– Âm thanh: Flaviano Vilareạl

– Âm nhạc hòa tấu theo nhạc phẩm của Phạm Duy do Restie Umali điều khiện

Địa điểm được chọn để quay phim là Long Hải và Nha Trang, vì cả hai nơi đều có cảnh giống như trong chuyện phim, và lại là vùng có nhiều trại di cư người Bắc, nên rất tiện cho việc nhờ họ làm phụ diện. Đoàn quay phim gồm có gần 100 người, trong đó, các anh em trong quân đội lo về an ninh đã chiếm mất một phần tư, còn lại là tài tử, chuyên viên, nhân viên giúp việc của Việt và Phi và một số người khá đông trách nhiệm về ẩm thực. Phải dùng đến 10 chiếc xe vận tải lớn của quân đội, mới chuyên chở hết được mọi người và dụng cụ của phim đoàn.

Thời gian quay phim mất gần ba tháng. Mọi người đều hăng say làm việc, không quản ngại đến những trận mưa rào như tát nước vào mặt, hay trời nắng chang chang thêm với sức nóng của các ngọn gió từ bên Lào thổi đến như nung đốt rừng núi, làm cho nhiều diễn viên đã phải núp cạnh các xe vận tải để có chút ít bóng mát. Chỉ có lúc tắm biển vào buổi chiều khi mặt trời lặn, là lúc xả hơi vui vẻ cho mọi người sau một ngày công lao cực nhọc.

Mỗi ngày ai cũng đều phải thức dậy từ lúc mờ sáng để chuẩn bị những việc cần thiết phải làm của mình. Nhóm này thì lo máy móc dụng cụ quay phim, kẻ kia lo nấu nướng đồ ăn cùng nước uống cho mọi ngượi. Diễn viên thì lo phần áo quần cùng hóa trang, nhất là phải học thuộc lòng các câu đối thoại. Đạo diễn và giám đốc thu hình chăm chú cùng nhau bàn tán, về các góc cạnh hay các đoạn phải quay phim trong hôm đó. Kỹ sư âm thanh thì chọn chỗ để máy điện, cần phải đặt máy ấy nằm nơi ngược chiều gió tránh khỏi bị ồn lúc thâu tiếng nói. Mỗi người mỗi việc, sáng nào cũng thật là bận rộn và nhộn nhịp lo cho công tác của mình.

Có rất nhiều chuyện vui, buồn, hồi hộp, lo lắng hay tang tóc đã xẩy ra trong lúc quay phim này. Tôi xin kể lại vài câu chuyện bên lề ở hậu trường mà dân chúng chưa được nghe đến, dĩ nhiên là nên khởi đầu với chuyện vui:

– Trong lúc quay trận đánh phục kích đoàn xe Pháp gần đèo Mo Lang ở phía đông Nha Trang, chúng tôi chỉ tìm có được một kiều dân Pháp còn ở tại vùng đó, nên nhờ anh ta đóng vai người lính Pháp lái chiếc chiến xa dẫn đầu đoàn xẹ. Việc anh ấy phải làm là lúc nghe tiếng mìn nổ thì thò đầu ra khỏi xe và la lớn: “Les Viet-Minh attaquent!” (Việt Minh tấn công!) Rồi sau đó, anh ta phải gục đầu xuống làm như bị trúng đạn, nên ói máu mồm rạ. Đến lúc quay thật, mọi chuyện xẩy ra như đã được dự định, nhưng lúc anh lính Pháp gục đầu xuống chết, thì mồm lại không có tí máu nào chảy rạ. Khi hỏi lý do vì sao thì anh ta nhe răng cười, nói là lúc ngậm chocolat trong miệng giả làm máu, vì ngon quá, nên anh đã nuốt hết mất không còn giọt nào. Trận đánh thực hiện thật quá tốn kém, không thể nào quay lại được vì thiếu một chi tiết nhỏ đó, nên đành phải chịu. 

Ảnh Poster: Krus Na Kawayan tức Chúng Tôi Muốn Sống, ấn bản Phi Luật Tân.

– Buồn là người phụ tá của anh chuyên viên xảo thuật Totoy Torrenta, lúc pha thuốc súng cho trận đánh tại Nha Trang, đã bị cháy phỏng nặng vì làm xẹt lửa trên sân đá tuy dùng cái chày bằng gổ để trộn các chất nộ. Anh ấy đã được chở cấp tốc về Manila để điều trị.

– Hồi hộp trong khi thực hiện trận phục kích, là lúc đem cả đoàn xe thiết giáp lên vùng rừng núi của đèo Mo Lang (dường mòn Hồ Chí Minh). Con đường nhỏ quanh co ở trên đèo ấy, có một cái cầu sắt với tấm bảng đề là sức lượng của cầu chỉ chịu nổi tối đa là 15 tấn. Chiếc chiến xa dẫn đầu của đoàn quay phim thì nặng đến 25 tấn! Nếu lái qua mà cầu sập thì cả đoàn quay phim sẽ bị kẹt lại trên núi này, nhất là lúc đêm xuống thì rất nguy hiểm vì đây là vùng có Việt Cộng. Quyết định cuối cùng là vẫn phải liều cho lái xe qua cầu. Tim tôi đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài lồng ngực khi nhìn chiếc xe tank to lớn, xích sắt kêu ken két, chậm chạp bò từ từ qua chiếc cầu nhỏ bé ấy.

– Hồi hộp thêm là lúc chuẩn bị quay cảnh phi cơ Pháp bay là xuống bắn đoàn dân di cự. Tôi đánh điện về Saigon xin gởi ra Nha Trang hai chiếc phi cơ quân sự loại thường dùng để bắn phá hay ném bọm. Lúc phi cơ đến phi trường, tôi lên xem ở phía trong thì sợ hết hồn, vì họ chất đầy bom thật loại 100 kí! Tôi yêu cầu cho cất tất cả bom ấy vào kho ngay vì nguy hiểm cho việc quay phịm. Anh phi công nhờ tôi phải chỉ rõ những việc cần phải làm, nhất là định bay thấp xuống chỗ nào và xa mặt đất bao nhiêu thưởc. Tôi ngồi cạnh người phi công để bay thử đến địa điểm quay phịm. Tôi chưa bao giờ đi loại phi cơ quân sự nhào lộn kiểu này, nên bị choáng váng buồn nôn nói không ra lời! Thế mà đến lúc quay thật thì anh phi công tuổi trẻ tài cao này, lại biểu diễn phi cơ bay xuống quá thấp gần mặt đất cho thêm phần hào hứng, đến nỗi chiếc dù to che ánh mặt trời của máy quay phim, bị gió của động cơ máy bay cuốn đi mất!

– Hồi hộp hơn nữa là lúc người yêu của tôi là nữ tài tử Mai Trâm, diễn xuất cảnh nữ cán bộ Lan cướp súng để bắn mấy người cộng sản. Cây súng đó là loại súng máy thời Pháp loặi FM), nặng 30 kí và sức đạn giật lại vào tay rất mạnh. Với thân hình nhỏ bé, lại phải ôm cây súng quá nặng để chạy ra bãi cỏ bắn máy bay Pháp, rồi quay ngược lại bắn mấy người cán bộ, nên lúc quay xong màn đó, tay Mai Trâm đã phải băng bó mất mấy ngày vì ngón tay bóp cò súng bị rách toé máu ra!

– Lo lắng và sợ nhất là trong khi quay trận đánh phục kích ở trên đẹo.  Số chất nổ và đạn dược sử dụng hơn mười ngàn kí, số đạn xảo thuật thì rất ít vì quá tốn kém để chế tạo, còn lại đều là dùng đạn thật. Nếu có sự rủi ro nào xẩy ra, thì trách nhiệm sẽ quá nặng nề cho phim đoạ`n.

Ngay như lúc quay màn tiêu hủy quân cụ địch quân, phi đạn súng không giật băzooka) cũng là loại thật, nên chiếc xe bị bắn trúng đã nổ tung lên tan nát!

– Một việc tang tóc không ngờ đã xẩy ra trong lúc chúng tôi đang quay phim tại Long Hải. Đoàn quay phim lúc đó đang chuẩn bị nghỉ ăn cơm trưa, thì được tin là chiếc xe ẩm thực, lúc tài xế lái qua vùng núi đá, đã bị lật rơi xuống gần bãi cát và kết quả là có vài người bị thương cùng một người bị xe đè chết. Tôi vội vã phóng xe đến chỗ xẩy ra tai nạn, thì mới thấy người bị xe đè chết chính là anh bạn thân của tôi tên là Lê văn Phấn, hoạt động trong ngành điện ảnh, mới từ Paris trở về. Anh ta được tin tôi đang làm phim nên đến Long Hải, xin cùng đi nhờ xe ẩm thực, để ra thặm. Thật là một sự bất hạnh đau đớn mà bao năm qua, hình ảnh người bạn trẻ đẹp trai quý mến này, vẫn còn ghi nhớ mãi trong ký ức tội.

Quay hết xong cuốn phim và gửi qua Manila để in và rửa thì lại gặp một vấn đề khác là việc nối ráp phim: không một ai ở phim trường Phi Luật Tân hiểu tiếng Việt và phần phim về âm thanh họ đã in ra, để lộn xộn không biết đâu mà ráp nối với phần có hình ạnh. Thông thường thì phần ráp nối sơ bộ được làm xong thì đạo diễn mới xem lại và sửa đổi cho đúng ý mịnh. Trong tình thế này, tôi lại phải bay qua Manila để lo cho toàn diện phần ráp nối cùng âm thạnh. Chuyến qua Phi Luật Tân này có thêm nhà văn Nguyễn Tú cùng đi để giúp về phần đối thoại của phịm. Như thế lại mất thêm gần hai tháng nữa thì cuốn phim mới được hoàn thành để đem ra chiếu ở các rạp.

Ngày đầu tiên, phim Chúng Tôi Muốn Sống ra mắt ở Saigon tại rạp Đại Nạm. Dân chúng kéo nhau đi xem đông quá nên thiếu chỗ ngội. Lúc chiếu đến cảnh tố khổ, bỗng nhiên rất nhiều người trong rạp bị quá xúc động, cùng nhau đứng dậy, hô to lên nhiều lần “Đả đảo! Đả đảo Cộng Sản!” Thật là một sự bất ngờ thú vị, và tinh thần chống Cộng đó vẫn còn được kéo dài cho đến ngày hôm nạy. Trên phương diện chính trị và lịch sử, mục đích của cuốn phim này là để nói lên cho dân chúng hiểu, lý thuyết mà đảng Cộng Sản đã đem ra áp dụng một cách cuồng tín tại Việt Nam, thật quá tàn bạo và độc ác đối với con dân trong nước vì đã sát hại bao nhiêu đồng bào vô tội.

Chuyện phim phơi bày giai đoạn đẫm máu của chính sách cải cách điền địa và giai cấp đấu tranh, đã chứng minh là không thành phần nào trong xã hội Việt Nam có thể sống nổi với chính sách này. Từ giai cấp trí thức, quân nhân tham gia kháng chiến nhưng liên hệ với thành phần địa chủ, cho đến các cán bộ có tinh thần quốc gia nhưng không mù quáng theo chủ nghĩa Cộng Sản Quốc Tế, và ngay cả đến giai cấp bần cố nông đã được họ giải phóng, tất cả mọi người, đều bị lợi dụng kiểu vắt chanh bỏ vỏ, bị khủng bố hay thủ tiêu, nếu không triệt để chỉ trung thành phụng sự cho Đảng mà thội. Chính sách cải cách điền địa bắt đầu ở ngoài Bắc từ năm 1953 cho đến 1957, họ đã giết hại mấy trăm ngàn nhân mạng một cách oan uổng và vô ích.

Vì vậy nên sau đấy, chính ông Hồ Chí Minh cũng đã công nhận sự sai lầm tai hại ấy, nên ra lệnh bãi bỏ chính sách đấu tố địa chủ và cách chức tổng bí thư Trường Chinh, người chỉ huy phong trào đó. Phim Chúng Tôi Muốn Sống ra đời vào năm 1956, có thể một phần nào đã ảnh hưởng đến quyết định này.

Theo sự tìm hiểu của tôi sau này, thì việc chấm dứt phong trào cải cách điền địa, chỉ vì đảng Cộng Sản đã nhận thấy họ đang thi hành một chiến lược sai lầm vì nước ta không có giai cấp thợ thuyền vô sản như ở bên Ngạ. Họ áp dụng lý thuyết giai cấp đấu tranh một cách đần độn và quá khích tại Việt Nam, một nước sống nhờ nông nghiệp, mà lại đem ra đấu tố giai cấp địa chủ và phú nông, để gây ra sự căm thù và oán hận trong giới nông dân, thì họ làm sao còn có điểm tựa ở chốn thôn quê cho sự tồn tại của quân du kịch. Vào cuối năm 1954, cả triệu người rời bỏ miền Bắc vào Nam chống Cộng Sản đã chứng minh việc đó .

Nói tóm lại, phim Chúng Tôi Muốn Sống đã đi vào lịch sử của điện ảnh Việt Nạm Tuy không thành công lắm trên phương diện tài chánh vì thị trường Việt Nam quá nhỏ hẹp, mặc dù phần đông người Việt thời đó đều muavé đi xem phim nậ`y. Hơn nữa, lại là loại phim có tánh cách tuyên truyền nên không chiếu thương mại ở ngoại quốc được, nhưng về mục đích chống Cộng thì lại thành đạt vẻ vang khắp nở.

Cuốn phim đó đã được giải thưởng Chính Trị của đại hội Điện Ảnh Đông Nam Á tại Seoul Đại Hàn năm 1967, và lại là cuốn phim được chọn để trình chiếu trong đại hội Chống Cộng Thế Giới ở Dallas Texas cho các phái đoàn của một trăm nước đến xem vào ngày 12-11-1985, dưới sự chủ tọa của trung tướng chủ tịch John K. Singlaụb.

Sau đó, phim ấy còn được chiếu tại Tòa Bạch Ốc thời tổng thống Reagan, cho các nhóm sinh viên học ngành chính trị, do ông Rudy Beserra, giám đốc phòng Liên Lạc Dân Sự tổ chức .

Đây là một cuốn phim độc nhất được sản xuất từ thời đó cho đến bây giờ, đã giúp cho nhiều người hiểu rõ thêm về một chế độ bạo tàn mà cho đến nay, bao người bỏ nước ra đi tìm tự do, vẫn còn thấy thấm thía và đau lòng.

Chúng ta nên nhìn Cộng Sản như đám mây đen bay qua, và Tự Do thì như ánh mặt trời cần thiết cho muôn loại. Thế hệ trẻ của Việt Nam ở trong và ngoài nước, mới lớn lên trong vài thập niên qua, phần lớn đều không hiểu Cộng Sản là gì, nhưng đâu có kẻ nào muốn sống dưới đám mây đen tối, vì ai cũng thích thoải mái vẫy vùng tự do dưới ánh nắng ấm áp của mặt trời.

Mây đen bay qua rồi trời lại sáng, đó là định luật tự nhiên của tạo hóa.

Đạo diễn Vĩnh Noãn.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links:

https://vietmania.blogspot.com/2008/03/

Chúng Tôi Muốn Sống (We want to live) You tube.
https://www.youtube.com/watch?v=8c6r6RqtkkQ


https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%BAng_t%C3%B4i_mu%E1%BB%91n_s%E1%BB%91ng#H%E1%BB%A3p_t%C3%A1c


Những người muôn năm cũ – FB Sài Gòn Xưa

 Bài đọc suy gẫm: Những người muôn năm cũ là tựa thay cho tập hồ sơ quý hiếm: An táng hai Ông Ngô-Đình-Diệm và Ngô-Đình-Nhu của nền Đệ nhất VNCH bị người Mỹ bức tử năm 1963.

– Những điều chưa biết về Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi xưa

Nghĩa trang rộng khoảng 7,5 hecta và được coi là nơi an nghỉ của giới ‘quý tộc’ Sài Gòn trước khi thành phố đổi tên, nơi đây nhiều nhân vật nổi tiếng một thời như Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại tướng Lê Văn Tỵ “đã từng” yên nghỉ, tôi dùng chữ “đã từng” vì tưởng như thế là yên thân với ‘mồ yên mả đẹp’ nhưng có ai ngờ lại phải bốc mộ đi dời để biến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thành công viên Lê Văn Tám ngày nay.

Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, còn được gọi qua tên Đất thánh Tây, là một khu đất bao bọc bởi bức tường vôi màu vàng cũ kỹ nằm ngay giữa trung tâm sầm uất của Sài Gòn xưa. Vì là nghĩa trang của giới quý tộc nên một khoảnh đất nhỏ trong Mạc Đĩnh Chi có giá bằng cả một gia tài của một người sống giữa đất Sài Gòn.

Mộ bia tại đây thường là những tấm đá cẩm thạch, đá hoa cương bóng lộn với dòng chữ R.I.P (rest in peace), có những câu đậm mùi triết lý “Hãy nhớ mình là cát bụi và sẽ trở về với cát bụi” hoặc “Người sẽ chết tưởng nhớ người đã chết”… Nghĩa tử là nghĩa tận, ‘người sẽ chết’ đã lo cho ‘người đã chết’ bằng những mộ phần hào nhoáng

Sau khi bị lực lượng đảo chính giết vào tháng 11/1963, hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Áo quan của ông hình hộp, áo quan của ông Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích, người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Diệm, còn chiếc hạng vừa dành cho ông Nhu.

Mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu khá đặc biệt, chỉ có tấm đan bê tông đặt bên trên cao hơn mặt đất vài chục phân. Suốt từng ấy năm cho đến 1975, hai ngôi mộ nằm lọt thỏm, đìu hiu giữa nghĩa trang bộn bề những ngôi mộ kiên cố, những kẻ cơ hội quay lưng với gia đình họ Ngô đã đành, những người thân cũng ngại đến thăm viếng vì sợ chính quyền thời đó dòm ngó. Năm 1964, bà Phạm Thị Thân, thân mẫu của hai ông mất, đám tang thậm chí còn không người đưa tiễn!

Hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu được chôn trong kim tĩnh (hộp bê tông dày và kín) rất khô ráo. Khi cải lên, thi thể của cả hai chỉ khô lại chứ không tan rữa, vẫn có thể nhận ra từng người. Đầu hai người đều quấn băng trắng in dấu máu đen từ những vết thương trước khi chết. Khi băng được mở, vết máu vẫn còn cứng. Sau gáy ông Nhu có một vết thương khá lớn, có thể do va đập.

Trong thời gian di dời, có một người phụ nữ tên là Hạnh từ Huế vào, xưng là cháu, nhận thi hài hai ông Diệm-Nhu và được đem đi cải táng tại nghĩa trang Lái Thiêu (Bình Hòa, Thuận An, Bình Dương). Mộ ông Ngô Đình Cẩn (được chôn tại nghĩa trang sân bay Tân Sơn Nhất sau khi bị xử bắn vào năm 1965), và mộ bà thân mẫu Phạm Thị Thân cũng được quy tụ về Lái thiêu.

Trong khu đất rộng hàng nghìn hecta với những rặng cây lớn xanh và mát, mộ gia đình họ Ngô nằm cùng một dãy. Mộ bà Luxia Phạm Thị Thân nằm ở giữa, mộ hai ông Diệm, Nhu hai bên nhưng trên bia chỉ khắc Gioan Baotixita Huynh (ông anh) và Giacobe Đệ (ông em). Cách mộ ông Nhu một quãng là mộ ông Cẩn, trên bia có khắc Jean Baptiste Cẩn.

Tại Mạc Đĩnh Chi, ngoài mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu còn có mộ thân phụ của các ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, một số tướng lĩnh cao nhất, dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn, cùng hàng nghìn nhân vật tên tuổi trong chính quyền. Trước năm 1975, một số người vì muốn thân nhân đã khuất được danh giá, bản thân được chút tiếng tăm, phải cố chạy chọt giành lấy một khoảnh đất trong Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Face book Sài Gòn Xưa.


Niềm Suy Nghĩ Bay Cao … – Mũ đỏ Trương văn Út

Bài đọc suy gẫm: Niềm Suy Nghĩ Bay Cao hay “Chữ Tín” của tác giả Mũ đỏ Trương văn Út, hồi ký của một sĩ quan Nhảy Dù – QLVNCH sau 30-4-1975 vượt thoát ngục tù cộng sản, vượt biên qua những giao tình, với những người Việt gốc Hoa. Hình ảnh chỉ là minh họa.

CHỮ “TÍN”

Mũ Đỏ Trương văn Út, danh hiệu truyền tin Út Bạch Lan.

LTS: Cựu Đại Úy Trương văn Út, cựu SVSQ Khoá 22/TVBQGVN. Ông là ĐĐT Đại đội 5, Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù/ Lực Lượng Đặc Biệt.

Sau ÐÐ5 Biệt Cách Nhẩy Dù cải tuyển thành Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù/SĐND, được các cựu SVSQ/Khoá 22/TVB Quốc Gia VN gọi là “Lão Ngoan Đồng”. Ông vượt thoát khỏi trại tù CS (Long Giao). Mấy năm trời sống lanh quanh thành phố Saigon, trước khi vượt biên (1982) đến trại tị nạn Mã Lai. Ông hiện định cư tại Houston, Texas .

***

Tôi chỉ có một bà chị dâu duy nhất. Chị kết hôn với người anh thứ ba của chúng tôi nên tôi gọi là Chị Ba. Tên của chị là Trần Sâu Lầy. Nghe qua cái tên thì biết ngay Chị là người Việt gốc Hoa. Chị sinh quán ở xã Cây Dừa, Quận Cai Lậy, Mỹ Tho, xuất thân Sư Phạm Sài Gòn, làm cô giáo ngay tại nơi sinh trưởng của mình.

Anh của tôi là Trương văn Nhì (Khoá 15 Võ Bị Đà Lạt (VBĐL) phục vụ tại Trung Đoàn 12/ SĐ 7 Bộ Binh…

Theo lời kể, gia đình ông sở ông sơ của chị, thuộc dòng dõi Minh Hương bên Tàu, chạy tỵ nạn nhà Thanh sang lập nghiệp ở Cà Mau cùng thời với Mạc Thiên Tứ, Mạc Cữu….Cho đến đời Ông Cố, ông Nội vẫn còn ôm giấc mộng “Phản Thanh Phục Minh”…và đến đời thân phụ thì di chuyển về Cây Dừa, tỉnh Cai Lậy và chị được sinh ra nơi đây…

-Năm 1975… Anh của tôi đi tù caỉ tạo CS. Chị bị cho nghĩ việc vì vợ sĩ quan “Ngụy”… Chị chuyển sang nghề may vá, tần tảo nuôi ba đứa con còn nhỏ dại.

Khi tôi trốn ra khỏi trại tù CS ở Long Giao (1976), thỉnh thỏang lén lút ghé thăm Chị. Chị lúc ấy gầy rọp thân thể, lưng còm xuống, già lão trông giống như người đàn bà năm sáu mươi tuổi, mặc dù lúc ấy chị mới khoảng 26, 27 tuổi.

Ấy, vậy mà cứ sáu tháng một lần Chị phải gánh hai bao bố thức ăn khô, thuốc men, từ Sài Gòn ra đến trại Vỉnh Phú (miền Bắc) thăm nuôi Anh tôi trong tù.

Năm 1987… Mười hai năm sau, anh được thả ra. Chị đã chuẩn bị sẵn cho Anh để vượt biên bằng đường biển, qua sự trung gian của gia đình người Hoa mà chị thân thích. Không may, Anh lại bị bắt và bị giam ở Mõ Cày (Bến Tre) chịu đựng ba năm khổ sai…

Sau đó, được tạm tha, trở về gia đình, sống trong bàn tay buôn tần bán tảo của Chị. Vợ chồng đạm bạc bên nhau, cho đến ngày cả gia đình được sang Mỹ với diện HO-5…

Ngày nay, gia đình anh chị tôi, đã ổn định. Con cái đã thành thân và thành nhân với một đàn cháu nội ngọai đề huề…Có lần tôi hỏi Chị

-Bí quyết nào giúp cho Chị vượt qua tất cả gian nan để có ngày nay?

Chị cười và nói:

-Có gì đâu! Chị có 9 đồng, chị cố kiếm thêm 1 đồng để đủ 10 đồng, rồi Chị dấu đi để phòng khi hữu sự. Còn tụi Em có 9 đồng, đi vay thêm một đồng để chén thù chén tạc với bạn bè. Tiền vất qua cửa sổ, chẳng bao giờ chạy ngược trở vào….

Đó là triết lý sống của người chị dâu gốc Hoa của tôi..

Năm 1979… Ngược giòng thời gian…

Tôi ghé thăm Chị, khi anh tôi còn đang ở trại tù ngoài Yên Bái. Tôi sống lang thang không nhà không cửa, ngoài vòng pháp luật, vì đã trốn ra khỏi tù. Nhờ chị giới thiệu tôi với một gia đình người Hoa trong Chợ Lớn và tôi có việc làm “chui “…

Mỗi sáng lúc 5 giờ, đạp xe đạp đến chỗ hẹn, nhận 3 cây vải sa-ten đen, chở lên Cầu Tre ( Phú Lâm) giao cho người nhận là một xưởng nhuộm lậu. Sa-ten là một lọai lụa, dùng để may quần cho đàn bà.

Buổi chiều lúc 3 giờ, trở lại nhận 3 cây sa-ten trắng đem về giao lại cho Chủ. Cứ mỗi chuyến ” giao hàng ” như vậy, Chủ trả cho 25 đồng tiền mới (tiền cụ Hồ – mỗi 500 đồng của VNCH đổi ra 1 đồng tiền Hồ).Thôi, cũng độ nhật qua ngày…

Ông Chủ trạc 60 tuổi, Tôi gọi là chú Quảnh, người Em của ông, là chú Xồi…Tôi không biết gia đình này có bao nhiêu người, nhưng hai anh em họ sống chung với nhau trong căn phố ba tầng ở đường Triệu Đà, Chợ Lớn. Căn phố cũ kỹ, đơn sơ, không một chút gì sang trọng như những căn phố gần đó.

Một hôm sau khi giao hàng, như thường lệ Chú Xồi trả công cho tôi 25 đồng. Tôi cám ơn, vội vã đạp xe đạp, giông tuốt rồi ghé quán càphê. Tôi móc tiền đếm lại thì tới 50 đồng, chứ không phải 25 đồng…

Trong hoàn cảnh khốn cùng này được đồng nào hay đồng nấy. Hớp vài ngụm cà phê, Tôi chợt giật mình vì chợt nhớ lại lời chị dâu tôi dặn:

– Em phải nhớ làm ăn với người Tàu, một cắc là một cắc, một đồng là một đồng, ăn gian nói dối thì không bao giờ làm ăn với Họ được…Họ làm ăn với nhau chỉ đơn giản với một chữ TÍN “…

Tôi bừng tỉnh, cong lưng đạp xe nước rút trở lại gặp Chú Xồi và trả lại 25 đồng mà Chú đã đưa dư…Chú cười và nhận lại tiền dư.

Tôi không biết chị dâu của tôi có nói gì với Họ về tôi hay không, nhưng một hôm, khi Tôi giao hàng, Chú Quảnh bảo Tôi:

-Nị dào chong dữa mặt , zồi za ăn cơm dới Ngộ há ..

Trong bữa cơm gồm cả hai gia đình…Họ xí xô xí xào. Tôi không hiểu họ nói với nhau điều gì. Khi từ giã ra về, Chú Quảnh đưa tôi ra cửa và Chú hỏi nhỏ:

-Nị có phải là sĩ quan “ngụy” chốn học tập không hả ???.. Đừng sợ… Ngộ biết hết dồi lớ…từ từ mình sẽ tính…

Tôi bàng hoàng rời nhà chú Quảnh với nỗi cực kỳ lo sợ. Ngày mai có nên trở lại nơi này không ??? Không !!! chắc chắn là không…

Tôi chuyển hướng, thay vì đi thẳng đến bến xe An Đông tìm chỗ ngủ đêm như thông lệ, Tôi đạp xe qua bến Phạm Thế Hiển gặp chị tôi…

-Chị Ba! Chị có nói gì mà Họ biết Em là sĩ quan ngụy trốn trại cải tạo?

Với nụ cười hiền hậu Chị trả lời:

-Không có sao đâu, họ đang giúp Em đó…

Hai tuần sau, tôi có cái giấy Khai sinh giả mang tên Trần Chỉnh, sanh năm 1942…người Việt gốc Hoa …

Tôi (chỉ một mình tôi) cùng gia đình Họ, hơn 60 người gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con, rời bến ở kinh Miệt Thứ, Rạch Giá ra khơi trên chiếc ghe đánh cá, ba block đầu bạc, đi tìm tự do.

***

Tàu ra khơi, nhưng không may, xế trưa ngày hôm sau bị gảy bánh lái cách đảo Phú Quốc chừng 10 cây số về hướng Đông. Tàu bỏ neo để thay bánh lái phụ. Một chiếc tàu đánh cá quốc doanh Phú Quốc xáp lại gần. Tất cả chúng tôi vội vàng chui xuống dưới khoang ghe, phía trên chỉ năm ba người giả bộ như đang đi đánh cá.

Tàu đánh cá VC không xáp lại gần, mà chỉ chạy chậm lại. Ngang ghe chúng tôi vài chục mét, chúng vẩy vẩy tay chào rồi tiếp tục hành trình về hướng Phú Quốc.

Tôi và Chú Quảnh bò lên phiá sau lái hỏi anh Lợi, người tài công có mười năm kinh nghiệm đánh cá. Anh nói với chút lo âu:

-Mình phải đi ngay, càng nhanh càng tốt, tôi đoán thế nào bọn chó đẻ đó cũng gọi Công an Biên Phòng…

15 phút sau ghe nhổ neo, vội vã lái về hướng Nam … Nhưng quá trễ. Hai chiếc PCF duyên tốc đỉnh phất phới ngọn cờ máu phiá sau chúng tôi với hằng tràng đại liên chỉ thiên đe dọa. Thế là chúng tôi bị bắt. Ghe được kéo về đồn Công An Biên Phòng ở Cây Gáo, sau đó bị tống vào trại giam của Ty CA Hình Sự Cà Mau, nằm phía bên kia cầu sắt. Bên này là chợ Cà Mau .

Thời gian này là lúc phong trào vượt biên bán chính thức đang nở rộ công khai. Người Hoa từ thành phố xuống Cà Mau được ưu đãi như khách du lịch có passport (thông hành) chờ xuất ngọai. Ghe của gia đình Chú Quảnh là ghe vượt biên lậu, nhưng nhờ “thời điểm” này, mà cả gia đình trên ghe của Chú Quảnh được đối xử không đến nổi tệ. Bọn CA chỉ lo vơ vét vàng… 5 cây, 10 cây… tùy số lượng để giải quyết vấn đề.

Tôi không biết gia đình Chú Quảnh hay Chú Xồi “làm việc” với bọn chúng bằng cách nào, vì mỗi lần Chú Quảnh được gọi lên văn phòng của chúng, khi trở về phòng giam, anh em họ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tàu.

Hai ngày sau đàn bà con nít được CA đưa ra bến xe đò cho xe chở về SàiGòn… Đàn ông bị giữ lại chờ xét xử sau ..

Trong thời gian chờ đợi, Chú Quảnh dặn Tôi:

-Nị nhớ khai đúng tên tuổi trong khai sinh mà Ngộ đã đưa cho Nị … Nị là Em dợ của Ngộ, là Em duột của dợ Ngộ…Nhớ nói giọng lơ lớ…đừng nói nhiều hớ ….”

Sau một tuần thẩm vấn từng cá nhân một 18 anh em “người Hoa chúng tôi” được ra ngòai lao động: vác lúa mang vào nhà máy xay, sau đó khiêng gạo xuống mấy ghe bầu đậu sẵn dưới sông bên cạnh Cầu Sắt.

Bao nhiêu nỗi lo âu sợ hãi ban đầu dần dần vơi đi, Tôi bỏ hẳn ý định trốn thoát, vì rằng trong trạng huống này Tôi nghĩ sớm hay muộn, không bao lâu, chúng nó cũng thả chúng tôi ra.

Thêm vào đó tình cảm với anh em Chú Quảnh càng ngày càng khắn khít qua những liên hệ của những người tù cùng chung một trại giam “ngọt cùng chia, bùi cùng xẻ”. Họ đối với Tôi như chính anh em của họ.

Sau hơn ba tháng lao động chúng tôi được cấp giấy “tạm tha trở về nguyên quán “…Điều này đối với tôi, tôi nghĩ như đang nằm mơ, vì mang tội vượt biên thì ít nhất ba năm lao động ở các trại tù cải tạo của miền Tây. Tôi tò mò hỏi Chú Xồi, Chú chỉ trả lời, bằng gịong người Tàu nói tiếng Việt.

-Mấy Bả dề trước, mấy Bả lo cho tụi mình…

Về đến xa cảng miền Tây, chúng tôi chia tay, Chú Quảnh lại dặn dò:

-Nị nghỉ ngơi vài ngày rồi trở lại gặp chúng tôi ..

Chú nhét vào túi quần tôi 50 đồng. Tôi quay lưng, niềm suy nghĩ bay cao..

Trở về nguyên quán? Nguyên quán của tôi ở đâu? Mấy năm nay, nhà của tôi là đầu đường xó chợ, là ga xe lửa, bến xe đò! Nhớ vợ con lắm thì nhắn chị Ánh (vợ Hùng Móm), chị Hồng Tố Yến (vợ TTC), chị Thu (vợ NTN) rồi kiếm cách lén lút gặp vợ con vài ba tiếng đồng hồ, khi những người thân yêu này giả vờ đi chơi lang thang trong Sở Thú…

Một tuần sau, tôi mon men trở ra Chợ Lớn tìm Chú Quảnh. Đứa con gái Chú Xồi chỉ ra quán cà phê góc đường Triệu Đà – Hùng Vương. Nơi đây tôi gặp lại họ.

Chú Quảnh vừa thấy tôi, Chú mừng lắm. Chú chạy ra, nắm tay tôi kéo đi một khoảng khá xa và nói:

-Nị đi ngay đi … đừng vào trong đó… Ngày mai lúc 6 giờ chiều gặp ngộ ở nhà hàng Soái Kinh Lâm.. Nị biết chớ?

Tôi im lặng gật đầu, trở lại lấy xe đạp, cứ đạp miết. Vô ngã hẻm này, ra ngã hẻm khác, len lỏi vào giòng xe đạp trên các lộ chính, rồi bất ngờ quẹo vào một con hẻm nào đó, mục đích “cắt đuôi” nếu bị theo dõi.

Tôi tin tưởng nơi gia đình chú Quảnh. Tôi chỉ còn một nơi bám víu chỉ với chút hy vọng mong manh là chỉ có gia đình Chú mới có thể giúp tôi thoát khỏi nơi này để đến bến bờ Tự Do.

Nhưng nay, qua sự gặp gỡ vừa rồi, Tôi hiểu gia đình của Chú cũng đang bị theo dõi gắt gao.

* * *

Sau bốn năm “giải phóng”, nhà hàng Soái Kinh Lâm vẫn sang trọng huy hoàng rực rỡ như ngày nào. Tôi bước vào, lòng mang bao nhiêu nỗi ngậm ngùi, nhớ lại những tháng ngày của một thời oanh liệt. Tôi ngồi vào chiếc ghế bên cạnh Chú Xồi, đảo mắt qua một vòng. Tôi yên tâm vì không có người lạ. Hầu hết là những người cùng Tôi vác lúa khổ cực ở Cà Mau khi bị giam về tội vượt biên…

Chú Xồi hỏi Tôi:

-Nị còn nhớ Chú Xường ngồi bên kia bàn hay không?

-Dạ nhớ.

-Ai ngồi kế bên?.

-Dạ, chú Chảnh…

-Nị ráng nhớ cho kỹ, một chút nữa qua đó ngồi nói chuyện với tụi nó và tụi nó nói cái gì thì nị cứ làm theo cái đó. Mấy thằng chó chết VC đang đánh tư sản mại bản. Tụi nó đóng cửa ba cái hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, tịch biên tất cả vải vóc chúng tôi đang có, và có thể sẽ tịch biên nhà cửa và đưa chúng tôi lên vùng kinh tế mới, không biết ở đâu…Cho nên chúng tôi không còn giúp cho Nị được gì nữa …Đây là Hộp trà Sâm, anh Chảnh biếu cho nị, có vậy thôi… Nhớ giữ hộp trà này bên mình.. Bây giờ qua nói chuyện với Xường và Chảnh.

Chú Quảnh từ một bàn khác liếc nhìn tôi mỉm cười. Buổi tiệc hôm nay là ngày sinh nhật thứ 16 con gái Út của Chú Quảnh. Tôi nắm lấy bàn tay chú Xồi siết thật chặt và thật lâu, trước khi chỉ biết nói hai chữ cám ơn rồì bước sang bàn chú Xường….

Xường và Chảnh chỉ lớn hơn tôi năm hoặc bảy tuổi, nhưng tôi vẫn gọi bằng Chú. Thời gian ở tù Cà Mau, trong cái láng dơ bẩn, ba chúng tôi cùng nằm một chiếc chiếu rách tả tơi .. Khi ngã lưng xuống chiếu Tôi thường hay kể chuyện Thủy Hử cho Họ nghe trước khi thiếp ngủ mỏi mệt sau một ngày vác lúa, vác gạo nhừ người.

Một cái ghế đã sắp sẵn cho tôi giữa Xường và Chảnh…Xường đi ngay vào đề:

-Anh có biết nhà hàng Thanh Thế ở chợ Bến Thành không ? …

-Dạ biết..

-Nhớ kỹ lời tôi dặn đây. Hôm nay là ngày Thứ Bảy. Sáng ngày Thứ Hai tới, anh gặp Tôi và Chảnh ở Thanh Thế. Cứ đến đó vào lúc khỏang 10 giờ nhởn nha uống cà phê, nhớ ăn mặc xuề xòa, râu tóc để nguyên đừng cạo đừng hớt… Đêm nay nhớ mở Hộp trà Sâm, mà anh Quảnh biếu cho Anh nhâm nhi cho đỡ buồn.

Tôi đứng dậy, nhìn một lượt chung quanh nhẹ cuối đầu như một sự từ giã không lời, lặng lẽ ra về với bao nỗi bâng khuâng trong lòng. Vui buồn lẫn lộn…cùng với nhiêu thắc mắc. Họ là Ai? Tài phiệt Chợ Lớn cỡ như Mã Tuyên hay Mã Sái chăng, hay thành viên của Triều Châu Phúc Kiến, hay thuộc xã hội Đen của Tàu Cộng, Đài Loan, Hồng Kông? Mặc kệ! Nghĩ chi cho mệt óc miễn sao mình còn thong dong đạp xe đạp tự do ngày nào hay ngày đó, dưới đường phố mưa sa mà không cần nhìn đến cờ đỏ sao vàng..

Đêm đó tôi mở Hộp trà Sâm…10 lượng Vàng Kim Thành thứ thiệt nằm trong đó, tôi chợt nhớ lời Chú Xường dặn “Thứ hai gặp Tôi ở nhà hàng Thanh Thế…”

Tôi ngủ một giấc ngủ chập chờn trên một căn gác cho thuê đầy chuột và dán ở bến xe An Đông.

***

Lúc còn tại ngũ, khi đơn vị dưỡng quân ở hậu cứ Tôi thường cùng bạn bè la cà….sáng thì đi uống cà phê có pha chút bơ Bretel ở nhà hàng Thanh Thế cách phía Tây chợ Bến Thành độ trăm thước, buổi trưa đi ăn Chateau Brillant ở tiệm Thanh Bạch, rồi Brodard. Ban đêm, đi vũ trường Văn Cảnh, hoặc Thanh Thanh ở xa lộ. Trong nhóm thường có Mỹ Hôi, Hùng Móm, Hùng Mập, Dũng Tây Lai , Cao-P-Minh, Xuân Đờn Cò, Ninh mắt Trừu…một hoặc hai thằng chia nhau một chầu. Chỉ một ngày rong chơi cũng vơi đi gần nửa tháng lương, để khi trở về nhà ngồi vào bàn ăn với vợ con, chỉ có một đĩa rau muống luộc và hộp thịt ba-lác!

Theo lời dặn của chú Xường, Tôi đến nhà hàng Thanh Thế khỏang 10 giờ. Giờ này, chỉ lác đác năm ba khách đến uống cà phê …Tôi tìm cái bàn trong góc có thể nhìn xuyên qua cửa kính để quan sát cả trong lẫn ngoài. Nhâm nhi ly cà phê với mùi vị bơ Bretel, hút hết điếu Samit thứ hai thì Xường và Chảnh cũng vừa đến. Họ vẫn tíu ta tíu tít xí xô xí xào như mọi khi. Tôi đứng dậy chào, Xường vội vàng ấn vai tôi…

-Ngồi xuống! Ngồi xuống…

Câu chuyện thật ra rất dài, Tôi tóm gọn những gì đã xảy ra trong phạm vi bài viết này…

Chú Xường mở lời :

-Đêm qua Anh uống trà Sâm có ngon không? .

Tôi gật đầu .

-Anh có mang hộp trà theo không

-Dạ có …

-Anh đưa cho Tôi …

Tôi chỉ lẳng lặng làm theo và chỉ im lặng ngồi nghe .

Tôi lần mở cái túi vải ăn mày móc 10 cây được gói cẩn thận đêm qua trong cái quần xì-líp dơ bẩn vàng úa, giao cho chú Chảnh. Chú Xường đưa cho Tôi một túi giấy trong đó có bốn cái bánh tiêu còn nóng hổi…

-Thời giá hiện nay, một cây là 2,850 đồng (tiền già Hồ)…Chúng tôi lấy lại 10 cây này, trả lại Anh bốn cái bánh tiêu Anh có puồn không ?…

Nghe Chú Xường phát âm cái tiếng “puồng” không. Tôi không “Puồng” chút nào, nhưng cố nén nỗi kinh ngạc để không hiện lên ánh mắt của mình

-Dạ không…

Chú cười và nói tiếp:

-Ở dưới bốn cái bánh tiêu, là cái đai vải (nguời Bắc gọi là cái ruột tượng) có 30.000 ngàn tiền mặt trong đó. Anh nhớ …lúc nào cũng cột thật chặt vào bên hông của Anh, chờ chút nữa sẽ có một người nữa đến gặp Anh. Anh ấy là anh em chú bác với tụi tui . Anh Xế Phò sẽ cho Anh biết anh sẽ phải làm gì… Còn phần tôi (Chú Xường) Anh phải nhớ kỹ những điều dặn dò của tôi sau đây: anh Quảnh bảo chúng tôi gặp Anh để cho anh biết những gì anh Quảnh đã sắp đặt cho Anh . Anh có biết tại sao không?..

-Dạ không!

-Vì Anh đã trả lại 25 đồng cho anh Xồi, anh Xồi thử Anh đó, và đó cũng là lý do Anh Quảnh quyết định mang Anh theo trong chuyến vượt biên kỳ vừa rồi.

Anh Quảnh chỉ lo …nếu Anh bị lộ tông tích thì chỉ có chết… Anh có biết Thương xá Tam Đa cũ hay không?

-Dạ biết.

-Bây giờ là cửa Hàng IMEX, bán những mặt hàng ngoại quốc mà chúng nó tịch thu của người Tàu chúng tôi ở Chợ Lớn…Thôi, uống cà phê đi…

Vừa lúc Chú Xế Phò bước vào. Chú Xế Phò, người dong dỏng cao, dáng dấp không có vẽ Tàu chút nào. Chú nói tiếng Quan Thoại, tiếng Pháp, tiếng Việt rất sành sõi rõ ràng.

Khi Chú Xường và Chảnh ra về, Xế Phò bắt đầu chất vấn:

-Anh tên Trần Chỉnh hả?

-Dạ vâng …

Chú mỉm cười…cái mỉm cười gọi là cái mỉm cười biết hết chi tiết.

-Anh có nói và đọc viết tiếng Anh được không ?..

-Dạ chút chút…

-Được tốt lắm …Tôi đang là Trưởng phòng Quản Trị Công Ty Imex thương xá Tam Đa cũ, theo lời yêu cầu của anh Quảnh, Thứ Hai tuần sau Anh bắt đầu làm việc dưới quyền của Tôi làm chức Thủ kho. Chỉ có nhiệm mở và khóa cửa kho khi có lệnh xuất nhập hàng của Tôi. Anh phải ghi lại mặt hàng nào được xuất trong ngày. Khỏang 10 giờ, giả bộ ra bên ngoài uống cà phê và giao danh sách đó cho Chú Chảnh. Ban đêm Anh ngủ lại cơ quan cùng với ba nhân viên khác, họ là những công nhân viên từ ngoài Bắc vào. Cứ như vậy đi, dần dần quen và biết hết mọi việc Anh sẽ có nhiều việc quan trọng hơn… .

Trước khi chia tay, Chú Phò đưa cho Tôi một Giấy Chứng Nhận: “Trần Chỉnh” nhân viên Cửa Hàng Imex, phía dưới đóng dấu ký tên Trưởng Phòng Thương Nghiệp Quận Nhất TP HCM , cùng một giấy nhỏ có ghi “Lý Kim Anh “Trưởng phòng Công An Chợ Bến Thành”.

***

Tôi đạp xe đạp loanh quanh với một tâm trạng lộn xộn xà ngầu …Hung hay Kiết?…Ngạc nhiên, lo âu lẫn lộn….nhưng không có nỗi lo sợ như khi Chú Quảnh hỏi “Có phải Anh là sĩ quan ngụy trốn học tập hay không”.

Tôi như người đang chới với giữa dòng sông, vớ được gì cứ vớ, không cần biết cái đó lành hay dữ. Đã leo lên lưng cọp, đã phóng lao thì phải theo lao … không còn sự chọn lựa nào khác .

Giám đốc Imex là một tên “Cán Ngố”. Cả ban Quản Trị của hắn ngơ ngơ ngáo ngáo, cộng trừ nhân chia sổ sách cứ lộn tùng phèo, lại thêm lòng tham lam ăn được cái gì là ăn cái đó. Tôi làm việc với họ chỉ có nhiệm vụ khóa và mở khóa kho chứa hàng hóa theo lệnh Chú Phò, sau đó ra ngoài gặp Chú Chảnh. Lúc này Tôi chỉ có một niềm vui sướng vô ngần là có một việc làm và một chỗ ở an toàn, không lo sợ bị phát hiện và bị bắt bất cứ lúc nào. Cũng trong lúc này Tôi đã áp dụng “Nghệ thuật Lãnh Đạo Chỉ Huy” của trường Võ Bị để chinh phục những nhân viên từ ngoài Bắc vào, một cách dễ dàng. Chú Phò hài lòng và mừng lắm.

Một hôm Chú rũ tôi đi ăn tối. Trên chiếc Volkswagen màu vàng củ kỹ Chú chở tôi một vòng chợ Bến Thành và trực chỉ bến Bạch Đằng. Một buổi cơm tối vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị trong đời tôi.

Trong nhà hàng nỗi Mỹ Cảnh…ba người đã ngồi sẵn. Tên Giám Đốc Imex Nguyễn Tạo, với cái mặt chành bạnh nhưng không che dấu được vẽ ngu si đần độn tham lam trên gương mặt của hắn. Tên Trung Úy Lý Kim Anh Trưởng Phòng Công An Chợ Bến Thành, Đặng Tư, Trưởng Phòng Tài Chánh Imex.

Trên bàn, chai Remy Martell vơi hơn phân nữa. Tôi khúm núm bước theo sau Chú Phò, chấp tay cuối đầu chào họ. Ngồi vào bàn Tôi cố giữ thái độ bình tỉnh, chỉ lắng nghe họ bàn luận việc của họ cùng với những suy nghĩ mông lung. Quả thật chú Quảnh và gia đình của Chú đã giúp Tôi quá nhiều, ơn sâu nghĩa nặng này bao nhiêu kiếp người tôi có thể báo đáp được .

Sau buổi cơm gọi là thân mật đó, tôi có thêm vài việc phải làm theo chỉ thị của Chú Phò.

Một buổi sáng khi Tôi giao danh sách hàng xuất kho cho chú Chảnh, hôm nay lại có mặt Chú Xường, Chú Xường bảo Tôi giao lại số tiền mặt tôi đang giữ. Chú Xường giao lại cho tôi một danh sách giá cả mua vô bán ra trong ngày ở thị trường Chợ Lớn. Tôi chỉ biết làm theo Có thắc mắc thì cũng chẳng ích lợi gì, vì tin rằng họ đang giúp mình qua cơn hoạn nạn.

Thời gian năm 1979, 1980, 1981… Thân nhân nước ngoài gửi tiền về giúp gia đình không gửi được trực tiếp như bây giờ mà dưới hình thức là “Phiếu Imex”.

Hàng Imex là hàng thứ thiệt, được tịch thu sau chiến dịch đánh Tư Sản Mại Bản …Nào là thuốc tây, radio, cassette, căm, sên, phụ tùng xe đạp…

Cả trăm mặt hàng khác, đều là hàng ngoại. Giới tiêu thụ hầu hết là con buôn từ Hà Nội, giá nào họ cũng mua, họ mua theo cái NGU của họ. Còn những người buôn bán phiếu Imex cò con thì đều qua tay mã thầu dậu là Chú Xường…Làm giá thì Chú Quảnh trong Chợ Lớn Khi Chú Quảnh cho biết giá cả sáng trưa chiều tối , thì Chú Phò cho lệnh xuất kho, bên cạnh có Tôi và Chú Chảnh đang chờ bên ngoài. Có gì trục trặc thì có Giám Đốc và tên Trung Úy Công An Lý Kim Anh.

Dù rằng tình hình an ninh có vẻ khả quan, nhưng nỗi lo âu vẫn canh cánh trong tôi. Không biết bị phát hiện giờ nào và nếu bị chúng bắt thì sẽ ra sao. Cứ vài hôm chú Xường gặp tôi nhét vào túi Tôi một hai ngàn (tương đương 1 cây vàng).Chú nói đó là tiền lời từ 30.000 đồng “hùn vốn” của Tôi. Tôi nhờ Niên Trưởng Huỳnh Bá Long Khóa 21 Võ Bị Đà Lạt, gửi về giúp vợ con và Cha Mẹ Chị Em Tôi. …Thôi cứ thế rồi thời gian cũng qua, dù chưa được trở lại đời sống bình thường như mọi người dân khác và không gần gũi được vợ con.

***

Một ngày đẹp trời tháng Ba năm 1982… Tôi đang ngồi uống cà phê dọc vĩa hè trước cửa hàng Imex, một chiếc Honda hai người trờ tới. Một người xuống xe, vội vả nắm lấy tay và bảo Tôi:

-Niên Trưởng theo Tôi qua Chợ Cũ làm vài chai Henneken.

Tôi có một cảm giác lạnh băng chạy từ đốt xương sống cuối cùng lên đến đỉnh đầu, nhưng định thần thì ra Nguyễn văn Định, (Khoá 24 Đà Lạt – TĐ 11 Nhảy Dù), đang chờ ngoài xe là Trần văn Hợp (Khoá 23 Võ Bị Đà Lạt)…

Chiếc Honda chở 3 người qua Chợ Cũ, làm đĩa cơm sườn, vài chai bia Con Cọp. Hợp móc trong túi xách một tờ giấy, điền tên Trần Chỉnh, rồi chở tôi ra bến Thủ Thiêm “TỐNG” xuống một chiếc ghe chở gạch cát của Công Ty Dầu Khí Vũng Tàu…

Đêm đó Tôi lại ra khơi. Lần này là lần thứ bảy, không kịp một lời từ giã nào với Chú Phò, Chú Xường, Chú Chảnh, Chú Xồi, Chú Quảnh và vợ con gia đình.

Một tháng sau, đang chờ đợi để rời khỏi Đảo Pulau Bidong, Mã Lai, sang trại chuyển tiếp Galang II ở Nam Dương, Tôi nhận được thư của vợ tôi :

“Anh yêu thương, Chị Ba (chị Dâu của Tôi) có đến thăm Em. Cùng đi với Chị có một người đàn ông, người này đã trao cho Em 10 lượng vàng và nói đây là tiền của anh Út gửi cho”.

Đó là Chú Xồi.

Quá Khứ và Hiện Tại

Trong ba tháng tội vượt biên, chúng tôi khom lưng đi vác lúa gạo ở Cà Mau, tình cảm của Tôi với gia đình chú Quảnh càng ngày càng gắn bó, qua những bữa cơm sau một ngày vất vả lao động xã hội chủ nghĩa, những bữa cơm “lòng heo, phá lấu heo quay, vịt quay”….Có nhiều lúc Tôi bỗng chợt cười khan…Họ hỏi tôi sao lại cười, tôi nói:

-Ở tù kiểu này sướng hơn trở về nhà

Chú Quảnh tiết lộ rằng, gia đình đã “chung” 150 cây cho thằng Trưởng Ty CA Hình Sự rồi, nay mai mình sẽ được về.

Thời gian này tôi gần gũi với Chú Xưòng – Chảnh nhiều hơn. Xường và Chảnh nhỏ con ốm yếu lại cùng một tóan lao động với Tôi…Có lần vác bao gạo bước qua tấm ván gỗ, bắt từ bờ sông xuống ghe bầu, Xường trợt chân té nhào xuống sông, tôi liệng bao gạo xuống mũi ghe, nhảy ùm xuống sông vớt chú ấy lên, ông chủ ghe bầu thông cảm không làm khó dễ mà chỉ nói …

-Không sao…không sao…xem như Tôi biếu bao gạo đó cho các Anh…Tội nghiệp!Tù Tội!.Tội Tù …

Từ đó Tôi, Xường, Chảnh như hình với bóng. Tôi thường kể họ nghe chuyện Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí, Thủy Hử. Họ khóai nghe nhất là bộ truyện Kim Dung kèm theo lời bàn phân tích của Lão Ngoan Đồng (biệt danh của tôi) về những nhân vật Ma Giáo và Chính Giáo. Cũng nhờ vậy mà ba tháng tù trôi qua như một giấc ngủ đêm với thịt quay phá lấu…

Viết theo lời kể của Xường và Chảnh :

Ông Cố Nội chúng tôi, lập nghiệp ở Chợ Lớn (vào khỏang năm 1860 ) với một cái gánh mua bán ve chai lông vịt, thường ngày thì mua được lông vịt nhiều hơn lông gà, vì người Tàu ăn vịt quay nhiều hơn. Khi Ông Nội chúng tôi ra đời thì cái gánh ve chai lông vịt đã trở thành cái ” vựa ” ve chai lông vịt, sau đó trở thành cái “xưởng” chuyên làm chổi lông gà, quạt tay và áo che mưa bằng lông vịt, còn ve chai thì cân ký bán sĩ cho một lò rèn làm chai lọ thủy tinh và cuối cùng là xưởng dệt tơ vải

Trong khi đó, người Em thứ Ba của Ông Cố chúng tôi – ông Cố Ba – làm nghề mổ heo, Bà Cố Ba giữ lại lòng heo nấu phá lấu theo kiểu Dương Châu, rồi cho hai người con trai đội mâm đan bằng mây đi bán dạo…Sau đó trở thành quán hủ tiếu duy nhất có bán thịt heo quay, thịt vịt quay, lòng heo phá lấu….Đó là tiền thân của “Công Ty Nhà Hàng Bát Đạt ” sau này.

Khi đến đời Ông Nội chúng tôi (vào khoảng vài thập niên cuối thế kỷ 19…1880-1900) thành phố SàiGòn được hình thành với những dinh thự, công sở, khách sạn nguy nga đồ sộ của mấy ông Tây Bà Đầm, trong khi khu Chợ Lớn vẫn còn bùn lầy nước đọng, đường xá được chính quyền Tây mở rộng ra đến vùng ngoại ô …Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Phú Lâm…. Huyết mạch giao thông buôn bán chính là ghe thuyền từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn và ngược lại… do đó mới có Kinh Chợ Gạo ( Mỹ Tho )

Cơ sở của Ông Nội chúng tôi phát triển rất nhanh, Bà Nội trông coi cửa hàng buôn bán tơ lụa, có thể nói gia đình chúng tôi lúc đó như là nhà thầu duy nhất cung cấp gấm, sa-ten, vải lụa… cho các con buôn thực Dân Pháp… trong khi gia đình Ông Cố Ba đang phát triển các tiệm ăn rập khuôn theo kiểu Tàu. Quán ăn và quán trọ Bát Đạt. Gia đình giàu có nhất trong vùng là giòng họ Mã, hậu duệ sau này là Mã Sái, Mã Tuyên .

Đến đời thân phụ mẫu chúng tôi thì gia đình cũng đã khá giả. Sáu anh chị em chúng tôi khi lên ba bốn tuổi đã được dạy xử dụng bàn tính (bàn toán) của người Tàu một cách rành rọt. Chúng tôi học trường Tinh Võ, ở nhà nói tiếng Quan Thoại, khi giao tiếp với con buôn thì bằng tiếng Việt hoặc tiếng Tây… Khi anh Quảnh lấy vợ người Triều Châu, thì cha Tôi giao hết chuyện quản trị làm ăn cho Anh, và Ba Tôi trở thành “Ông Trùm” của “Bang Hẹ “… Anh Xồi được giao trách nhiệm sổ sách kế tóan, còn Tôi (Xường),Chảnh và cô em út A Cảo làm chủ 3 hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, Phú Lâm.

Lời Kết

Qua những câu chuyện kể trên, Tôi không biết có phải vì trả lại 25 đồng mà Chú Xồi đã cố tình đưa dư, mà cơ duyên định số đưa đẩy Tôi gặp gia đình họ, làm ăn sinh sống với họ khoảng bốn năm trong hoàn cảnh lo sợ hồi hộp từng ngày cho đến một ngày đột ngột rời bỏ quê hương không định trước .

“HỌ”…. Trong ngôn ngữ lịch sự của người VN chúng ta thì Họ là người Hoa Kiều Chợ Lớn, bình dân thì thường gọi mấy Ông cắt chú , được phiên âm trệch ra từ danh từ “Khách Trú”…từ đó mới có danh từ Chú…Chú Ba Tàu…Chú Chệt…

Dù gọi là gì chăng nữa, Họ vẫn là Họ. Họ vẫn giữ phong tục tập quán từ hằng nghìn năm qua cho đến ngày nay….dù đã trải qua Tứ Đại Triều Đình (Tống, Nguyên, Minh, Thanh)… cho đến Bát Quốc Liên Quân… rồi Ma Cao Hồng Kông, Đài Loan và lục địa dưới bàn tay sắt của Cộng Sản… Họ lấy gia đình làm đơn vị căn bản, để từ đó vươn lên, trở thành “Bang”… nhỏ lớn tùy thời tùy thế. Cha Mẹ, Anh Em, Vợ Chồng Con Cái đùm bọc che chở cho nhau, để từ một gánh ve chai lông vịt hay một cái mâm đan bằng Mây, bán dạo lòng heo phá lấu một ngày trở thành những Đại Gia trong sinh hoạt các “Bang” của Họ… Chẳng qua chỉ có một chữ “TÍN”.

Họ khởi nghiệp từ Buôn Bán. Nhỏ lớn, sang hèn, nghèo giàu gì Họ cũng có thể làm, cần cù nhẫn nại, chắt chiu dành dụm, không khoe khoang, không xa hoa phung phí… cho đến một ngày “Puôn Pán Dạo…Puôn Pán Lẽ…” trở thành những Công Ty Xí Nghiệp kếch xù trong những lãnh vực rất đơn giản .

Gần như suốt thế kỷ 20, người Hoa Kiều Chợ Lớn Sài Gòn Gia Định không có một dịch vụ nào liên quan đến công nghiệp nặng chỉ chú trọng về việc trao đổi buôn bán hàng tiêu dùng gia đình. Họ tích lũy tài sản theo truyền thống cha truyền con nối, cho đến khi sự tích lũy tiệm tiến này trở thành một gia sản khả dĩ có thể trở thành một hội viên trong hệ thống thương mại vĩ đại của các ” Bang ” …

Dĩ nhiên trong sự buôn bán làm gì không có sự cạnh tranh dành giựt lẫn nhau, rất hiếm nhưng không phải là không có. Nếu có xảy ra thường thì Họ giải quyết nội bộ. Họ không thích tranh tụng kiện cáo, có những trường hợp liên quan đến pháp luật chính quyền thì Bang của Họ thương lượng để mọi việc trôi qua. Sau đó Họ giải quyết nội bộ bằng những biện pháp chế tài, cô lập vì “Bất Tín”, nặng nề lắm mới có vụ thanh toán. Gia đình hay cá nhân nào phạm vào chữ Tín thì chỉ có nước đi ăn mày.

Trung Hoa lục địa (Trung Cộng, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao….) Họ đều có chính quyền riêng của Họ. Người dân sinh ra, lớn lên học hành thành đạt, từng bước từng bước Họ tham gia chính quyền từ hạ đến thượng tầng cơ sở. Nhưng đối với người Hoa Kiều ở hải ngoại (theo sự hiểu biết của Tôi) như VN, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Úc…Họ không muốn tham gia vào chính quyền dù Họ có mãi lực đồng tiền, có thể mua tiên cũng được. Thí dụ như ở Indonesia, người Hoa Kiều chỉ có khoảng 3% dân số mà nắm giữ 70% tài sản của đất nước này. Nhưng có điều tài tình chúng ta cần phải khâm phục…. dùng mãi lực đồng tiền. Họ móc nối với chính quyền nơi Họ cư ngụ một cách kín đáo trơn tru… bên cạnh là những “Cái Bang”, giống như xã hội đen, mafia còn khủng khiếp hơn GodFather của Italy rất nhiều.

Nhiều người cho rằng “Ba Tàu” hay bắt chước làm đồ giả, điều đó hẳn nhiên, giải thích chuyện này Tôi chỉ mượn câu “Cứu Cánh Biện Minh Cho Phương Tiện “…

Còn Người Việt- Nam mình ?

Trải qua trăm năm dưới sự đô hộ thực dân Tây, 30 năm hiện diện của Mỹ (1954-1974), nay dưới sự cai trị tàn độc của CS, còn gần 4 triệu người Việt đang sống rải rác năm châu hải ngoại, chúng ta hãy xét nghiệm và làm một bài toán….

Câu Hỏi : “Đã có bao nhiêu người vì Danh, vì Vị, Vì Lợi đã dùng những bước chân “Bất Nhân, Bất Lễ, Bất Nghiã, Bất Trí, Bất Tín” để leo lên lên những bật thang danh vọng hảo huyền ảo tưởng, khiến cho cả nước (quốc nội) lâm vào tình trạng nghèo đói trong danh sách những Quốc Gia nghèo đói nhất thế giới, khiến cho Cộng Đồng Người Việt Nam nói chung và các Hội Đòan Tập Thể nói riêng ở hải ngoại lâm vào tình trạng ngày càng nghi kỵ, chia rẽ, phân hóa như ngày nay không bao giờ hàn gắn được., và cũng chẳng bao giờ có một vĩ nhân nào có thể xuất thế tế độ chúng sanh….ít ra cũng vài thế hệ sắp tới..

Họ là Ai?

Họ là những người tên Đỗ họ Thừa .

Họ đổ thừa cho Chế Độ Miền Nam VN sinh ra tham quan ô lại.

Họ đỗ thừa cho Chế Độ CS vơ vét mồ hôi nước mắt của dân lành cho tư lợi cá nhân

Họ đỗ thừa cho xã hội Tây Phương làm cho Tam Cương Ngũ Thường đảo lộn.

Nhưng Họ không bao giờ dám Đỗ Thừa cho chính Họ …”Ta là kẻ đã VONG BẢN, VONG QUỐC, VONG THÂN”.

May quá, Lão Ngoan Đồng học được những bài học từ gia đình chú Quảnh nên không bị vướng vào Ba cái VONG trên, mà Lão Ngoan Đồng chỉ mang cái bệnh ….VONG MẠNG!

Trương Út (Út Bạch Lan)


Ảnh: Lễ ra mắt sách “Theo Dòng Lịch Sử”của gia đình Võ Bị, San Jose 2018.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Vietmania Blogspot


Người đi viếng phải đi rất nhanh – Nhóm Đường Mới

 Bài đọc suy gẫm: “Người đi viếng phải đi rất nhanh” tức bài viết “Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp” do nhóm Đường Mới gồm 9 tác giả lỗi lạc về văn chương và triết học Pháp, Mỹ, Việt biên soạn. Cuốn sách xuất bản đã làm UNESCO hủy bỏ ý định vinh danh HCM.

Oliver Todd và Jean Francois Revel 

Năm 1990, nhà xuất bản Nam Á ở Paris phát hành cuốn ” HCM, Sự thật về thân thế và sự nghiệp “do 9 tác giả đồng soạn, trong đó có 6 người Việt, 2 người Pháp, một người Mỹ.
Cuốn sách được viết và dịch ra 3 thứ tiếng Anh, Pháp, Việt xuất hiện vào lúc tổ chức Văn Hóa Giáo Dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) dự tính vinh danh HCM nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông tạ

Hai tác giả người Pháp là Olivier Tođ và Jean-Francois Revel từng có mặt trong số nhà văn và triết gia ngoại quốc đã can thiệp để UNESCO hủy bỏ ý định. Vì vậy UNESCO chỉ cho CSVN mượn trụ sở để tổ chức văn nghệ nhưng không được nhắc tới ngày sinh của HCM.

7 tác giả còn lại gồm:
– Ralph B. Smith, giáo sư sử học Á Đông tại trường School of Oriental and African Studies (Viện nghiên cứu Á Phi) thuộc đại học Luân Đôn.
– Bùi Xuân Quang, chủ biên, nhà văn, đạo diễn điện ảnh, là người cùng Nguyễn Thế Anh và Huỳnh Bá Yết Dương sáng lập nhóm nghiên cứu và tập san Đường Mới.
– Nguyễn Thế Anh từng là Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon, giáo sư thỉnh giảng đại học Harvard, giám đốc CNRS (Trung tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học, Paris) và là một sử gia có uy tín trong giới sử học quốc tế.
– Tôn Thất Thiện, từng là giáo sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và đại học Vạn Hạnh, Tổng Trưởng Thông Tin VNCH, giáo sư đại học Québec tại Trois Rivières, từng được trao tặng Giải Thưởng Quốc Tế Về Báo Chí (Giải MacSaysay, mang tên tổng thống Phi Luật Tân ) vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa VN.
– Lâm Thanh Liêm, nguyên giáo sư và Trưởng Ban Địa Lý Đại Học Văn khoa Saigon, chuyên gia nghiên cứu CNRS, tác giả nhiều sách về chuyên môn và lịch sử, trong đó có cuốn Từ Saigon đến thành phố HCM, viết chung với Gustave D. Meillon.
– Đinh Trọng Hiếu, chuyên gia nghiên cứu CNRS, giảng sư đại học Paris VII, từng có thời viết cho tập san Đoàn Kết thân cộng.
– Đằng Phương, Nguyễn Ngọc Huy, nguyên giáo sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Saigon, nguyên chuyên gia khảo cứu tại đại học Harvard, tổng thư ký Phong Trào Quốc gia Cấp Tiến.
Cuốn sách là tập hợp những bài viết của 9 tác giả nói trên, mỗi tác giả một bài.

Trong Lời Nhà Xuất Bản, Mai Trung viết rằng các dân tộc Đông Âu đã ném chủ nghĩa CS vào “thùng rác lịch sử”.

Trong lời mở đầu, Vấn đề HCM, Bùi Xuân Quang viết: “Đời của lãnh tu. CS HCM hoàn toàn giả tạo từ ngày sinh cho đến ngày ông mất….Trong tinh thần đi tìm sự thật, công bằng và nhân ái, chúng ta phải đặt ông HCM vào đúng chỗ của ông: một người đã hoàn toàn sai lầm và phải chịu trách nhiệm với dân tộc, với đất nước.” (1)

Bài thứ nhất, HCM: Lòng yêu nước bị chuyển hướng của Jean-Francois Revel, triết gia, nhà văn và nhà báo, phụ trách mục xã luận các tuần báo Le Point, Giornale và đài Europe I. Tác giả viết: “Đáng lẽ HCM đã là một vị anh hùng tạo lập một nước VN tân tiến và dân chủ. Khốn thay, mục tiêu của ông không phải là nền độc lập của VN mà là việc sáp nhập nước này vào Quốc Tế CS … HCM là một trong những người thực hiện khắt khe nhất phương pháp mà chủ nghĩa CS đã dùng suốt thế kỷ 20. Đó là dùng sức mạnh nằm trong mong muốn tự nhiên của con người như tự do, độc lập, tiến bộ rồi xoay chuyển sức mạnh đó để phục vụ mục đích trái ngược với mục đích mà những người dân bị lợi dụng đã ước mong và theo đuổi…Dựa vào lòng ước mơ tự do để nô lệ hóa, đó là phương pháp của HCM theo đúng phương pháp của Lênin gian ác.”

Với tư cách một triết gia, một nhà tư tưởng, Revel đưa ra định nghĩa của lịch sử rồi căn cứ vào đó và dựa trên kết quả những hành động của HCM để đưa ra lời kết tội, dù chấp nhận trường hợp cho rằng buổi ban đầu đã có ý định hết sức tốt đẹp: “Lịch sử không phải là kết quả do những ý định của người ta mà là kết quả do những hành động của họ. Thế thì những kết quả còn đó: Nô lệ, xương máu, chết chóc và đói khát. Đã trưng dụng cuộc chiến đấu chống thực dân để đưa đến một tình trạng suy sụp như thế thì chẳng còn cách gì chống chế để chạy tội cả. Trái lại, đây là một trường hợp phạm tội gia trọng, một vụ đánh cắp, một vụ lừa bịp không hơn không kém.”

Bài thứ hai, Hành trình chính trị của HCM của Nguyễn Thế Anh. Theo tác giả, những nghi vấn đầy rẫy trong đời HCM đến nay vẫn chưa được giải tỏa. Chỉ riêng về năm sinh đã khá rắc rối.
Năm 1911, HCM ghi mình sinh năm 1892. Một báo cáo khác ghi: sinh năm1894. Trong chiếu khán thông hành cấp năm 1923 ghi sinh ngày 15-1-1895. Ngày sinh được coi như chính thức là 19-5-1890. Về cái tên Nguyễn Ái Quốc, tác giả cho rằng “có thể” là tên chung của nhiều người thường lui tới nhà luật sư Phan Văn Trường ở số 6 Villa des Gobelins. Và, hội Người VN Yêu Nước không phải do HCM lập nên như ghi trong sử liệu của CSVN. Hội này là của hai nhà cách mạng Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường: “Hai chí sĩ ho. Phan đã không nề hà dìu dắt những bước đầu của người thanh niên mà không bao lâu hai ông dành cho độc quyền sử dụng tên Nguyễn Ái Quốc. Biết rằng công an Pháp theo dõi chặt chẽ hành vi của mình, nên hai ông còn giao phó cho anh ta vận mệnh Hội Người VN Yêu Nước, một sự ủy thác mà các sử gia viết tiểu sử HCM lơ đi để lạm gán cho ông ta công lao lập hội này.
Với tư cách tổng thư ký của hội, Nguyễn Ái Quốc được nhận làm hội viên chi nhánh Pháp của Hội Nhân Quyền và Dân Quyền”.


Sự việc trên gợi nhắc trường hợp tương tự sau này khi HCM chiếm dụng danh xưng và danh nghĩa của VN Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) của Hồ Học Lãm để rồi biến thành Mặt Trận Việt Minh của ông ta vào năm 1941.
Tác giả nói HCM đã đến Nga ba lần khi chưa làm chủ tịch vào các thời điểm 1923-1924, 1927-1928, 1934-1938 và phủ nhận tin do HCM bịa rằng đến Nga lần đầu sau khi Lênin đã chết nên không được gặp. Tác giả khẳng định HCM đến Nga lần đầu vào tháng 7-1923, dự đại hội Quốc Tế Nông Dân từ ngày 10 đến 15-10 năm ấy.

Sử gia Nguyễn Thế Anh

Đó là lúc Liên Xô thay đổi sách lược dành cho nông dân một vai trò quan trọng mới. Năm sau HCM lại được dự đại hội V Đệ Tam Quốc Tế từ 17-6 đến 8-7-1924 tại Mạc Tư Khoa. Tác giả cho biết thêm: “Đến khi đại hội chấm dứt, một ủy ban tuyên truyền quốc tế được thành lập, mà trọng trách là tuyên truyền chủ nghĩa CS tại các nước thuộc địa… Quốc (HCM) được chỉ định gia nhập ủy ban này, ngang hàng với các ủy viên Pháp: Marcel Cachin; Ấn Độ: M.N.Roy; Nhật-bản: Sen Katayama; Algérie: Hadjali Abdelkader v.v…”

Tác giả gắn liền việc HCM đến Nga lần thứ 3 từ 1934-1938 với việc Liên Xô thay đổi chiến lược, quay ra thân thiện với Anh – Pháp hòng đối phó với Hitler, chủ trương cần phải liên hệ tốt
với họ để “thành lập những mặt trận bình dân, phải liên kết với các đảng phái dân chủ tư sản để chống chủ nghĩa phát xít”. Tại đại hội kỳ 7 (cũng là đại hội chót) của Đệ Tam Quốc Tế, HCM tham dự với tư cách đại diện bô. Đông Phương. Lê Hồng Phong dự với tư cách đại diện của đảng CS Đông Dương. Nguyễn Thế Anh trưng dẫn cuốn Chính giới Pháp và cách mạng VN (tháng 8-12, 1945) của Alain Ruscio để cho rằng “thỏa hiệp 6-3-1946 bao hàm sự duy trì nước VN trong khối Liên Hiệp Pháp”. (2)
Tác giả kết luận:”Huyền thoại này (HCM yêu nước) đã giúp nhiều cho CSVN được bên ngoài cũng như bên trong ủng hộ. Nhưng nó đã che lấp sự kiện chính yếu là nhà lãnh tu. CS đã hiến
dâng đời ông nhiều nhất cho sự thắng lợi của Quốc Tế CS, và ông đã hoạt động cho sự giải phóng xứ sở cốt là để đưa một cách hữu hiệu nhất quốc gia ông nhập vào phong trào công
nhân và nông dân quốc tế”.

Bài thứ ba, Cái đúng và cái giả dối về chuyện HCM, của giáo sư Tôn Thất Thiện là một trong hai bài dài nhất (47 trang), viết về chuyến đi lén lút sang Nga của HCM năm 1923 và chuyện bị thất sủng ở Komintern năm 1933-1938. Tác giả là một trong những người đầu tiên nói đến 2 tác phẩm do HCM ngụy trang người khác để kể về mình. Ông cũng nghiên cứu nhiều tác phẩm của các học giả và nhà văn, nhà báo thế giới như Jean Lacouture, Bernard Fall, Michelle Zecchini, Jean Sainteny, Archimedes Patti… và bài phỏng vấn HCM của ký gia? Charles Fourneau. Trong danh mục tài liệu tham khảo còn liệt kê bô. HCM toàn tập, các tác phẩm của Hồng Hà và của ban nghiên cứu lịch sử đảng do tỉnh ủy Nghệ Tĩnh phổ biến. Ngoài ra là các sách viết về HCM của những thủ hạ thân cận như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng … và một số sử gia CS khác. Một bài viết dài trên bốn chục trang mà có tới 60 chú thích dựa trên số lượng tài liệu tham khảo đó đã phản ảnh thái độ hết sức thận trọng của tác giả.
Khác với Nguyễn Thế Anh, giáo sư Tôn Thất Thiện đã dựa theo các tài liệu CS, nhất là của chính HCM, để ghi rằng Nguyễn Ái Quốc đến Nga, sau khi Lênin đã chết và mục đích chuyến đi Nga là dự đại hội kỳ V của Đệ Tam Quốc Tế (năm 1924) chứ không phải dự hội nghị về Nông Dân (năm 1923). Nhưng, sau đó tác giả viết thêm: “…Cũng ghi nhận rằng, một điều lạ lùng là Nguyễn Khắc Huyên, người đã viết một tiểu sử về Hồ, dựa vào tư liệu vững vàng xuất bản năm 1971, cũng nói rằng Hồ đã tham dự đại hội IV của Komintern vào tháng 11-12 năm 1922, trong đại hội đó ông đã gặp Lênin và Stalin, rồi rời nước Nga để trở lại lần nữa vào năm 1923, ông đến thủ đô Xô Viết ít lâu sau cái chết của Lênin.” (3)

Giáo sư Tôn Thất Thiện

Dù vậy, theo tác giả, những điều do Hồng Hà viết trong cuốn Bác Hồ trên đất nước Lênin, với tài liệu lấy từ văn khố Xô Viết cũ là dễ chấp nhận hơn cả. Do đó, tác giả kể một số sự việc theo Hồng Hà như ngay khi đến Berlin, HCM đã đi đến trụ sở của phái bô. Xô Viết số 7 Unter den, Linden, do đã có thỏa thuận trước và tác giả cho rằng theo những gì Hồng Hà tường thuật sau đó thì phải hiểu việc HCM đi Nga đã được Manuilski xếp đặt với đảng CS Pháp để được phái sang Nga dự đại hội kỳ V của Đệ Tam Quốc Tế với tư cách đảng viên CS Pháp.
Tác giả nhận định rằng lúc bấy giờ Manuilski rất cần những ý kiến về Phương Đông và các vấn đề thuộc địa, để thay Lênin (đang ốm nặng) tranh luận với M.N. Roy, lãnh tu. Ấn Cộng, về các vấn đề Phương Đông. Do thế mà HCM trở thành nhân vật quan trọng “được bầu vào chủ tịch đoàn của QT3.” (4) trở thành một thứ Kominternchik – tên gọi của một ủy viên của QT3, một người đã cống hiến hoàn toàn cuộc đời mình để phục vụ cho Quốc Tế CS. Nguyễn Ái Quốc là người như thế đó. (5)
Và tác giả kết luận: “Từ đó Hồ không còn là một chiến sĩ bình thường nữa, mà là một cán bộ quan trọng của bộ máy Komintern.” (6) Tác giả cho biết theo các tài liệu của Huỳnh Kim
Khánh, có một thời gian dài “…địa vị của Hồ bị giảm suy bởi vì, ngược lại với các người khác, ông từ chối tuân phục theo ý muốn của Mátxcơva, do ông không phải là “quốc tế vô sản”
nhưng là cách mạng yêu nước.” (7) Nhưng tác giả dựa vào tài liệu của Hồng Hà để quả quyết, HCM vẫn là “một Kominternchik phục vụ cho Komintern và được xem như một ủy viên trưởng thành của đảng CS Đông Dương” (8) Tác giả cũng dẫn lời HCM lên án gắt gao nhóm Tờ-rốt-kít để chứng minh HCM luôn trung thành với đường lối của Stalin: “Hồ làm tất cả để cho các thuộc hạ của mình bám riết chặt chẽ vào đường lối chống Trotsky…Ngay tại nhà ga, trước khi các đại biểu lên xe lửa, lời căn dặn cuối cùng của ông là họ phải chuyển lại cho Lê Hồng Phong mệnh lệnh là bất cứ ở trường hợp nào cũng không được hợp tác với bọn Trotskít.” (9)
Theo tác giả thì người như HCM và ở vào vị trí đó, “không có quyền quyết định về mặt chiến lược, mà phải chứng tỏ là khéo léo về mặt chiến thuật.” Phải chăng quyết định áp dụng đường lối dân tộc là bước chiến thuật để hoàn thành chiến lược cách mạng vô sản quốc tế mà HCM theo đuổi đã có một lúc bị ngờ vực? Để kết luận, tác giả viết: “Ta có quyền nghi ngờ sự khôn ngoan và lòng trung thực của người đó (ý nói ông Hồ) khi ông ta đã chọn con đường đó mà không nói cho họ biết ngay từ đầu một cách minh bạch rõ ràng. Những tai họa kinh hoàng đã dồn dập đè nặng lên dân tộc VN từ cuộc chiến thắng của CS năm 1975 cho phép chúng ta, còn bắt buộc chúng ta nữa, phải chấp nhận một kết luận như thế”.

Bài thứ tư, Thập niên cuối của cuộc đời HCM của Ralph Smith do Lê Đình Thông chuyển ngữ chỉ nói về hoạt động của HCM trong mười năm cuối đời. Ngay trang đầu, tác giả viết: “Một vài chuyên gia tình báo phương Tây có xu hướng tin rằng cuối đời ông, HCM chỉ còn ngồi làm vì và quyền lãnh đạo đã chuyển sang tay người khác.” (10) Tác giả trưng dẫn tiết lộ của Hoàng Văn Hoan, người bi. Lê Duẩn kết án tử hình vắng mặt, để cho rằng chuyện đó có vẻ đáng tin!
Tuy nhiên, tác giả đã ghi lại sự kiện HCM tiếp đón nhiều phái đoàn quốc tế, chủ trì những hội nghị quan trọng của đảng và nhà nước, cho thấy có thể HCM còn nắm thực quyền – đặc biệt là việc HCM có ảnh hưởng lớn đối với thế giới và luôn luôn cố giữ hòa khí với cả Liên Xô và Trung Cộng để nhận được viện trợ của cả đôi bên càng chứng tỏ điều đó. Do đó, tác giả đã đi đến kết luận ngược lại: “Sự việc này là một bằng chứng tỏ rõ Hồ không phải chỉ là một lãnh tụ hoàn toàn bị động trong tình huống khó xử này.” (11)
Về các phe nhóm tại miền Bắc lúc đó, theo tác giả, Lê Duẩn thân Liên Xộ Còn Trường Chinh và Hoàng Văn Hoan thân Trung Cộng. Nhưng tác giả cho rằng Trung Cộng đã không thành công trong việc gây ảnh hưởng quyết định với Hà Nội do sự việc Lê Duẩn (mà tác giả cho là thân Nga) đã nắm được quyền hành tuyệt đối sau khi HCM chết. Tác giả kết luận: “Nhưng cho tới nay người ta vẫn không biết là quyền hành của Lê Duẩn bắt nguồn từ một quá trình tiệm tiến suốt 4 năm trước đó – theo như Hoàng Văn Hoan đã nêu – hay là xuất phát từ một cuộc đảo chính trong thực tế ngay sau khi HCM từ trần.” Với lời kết luận này, tác giả có vẻ vẫn nghĩ HCM đã nắm trọn thực quyền tới phút cuối trong đời và ngờ vực là đã có một cuộc đảo chính theo một cách nào đó của phe nhóm Lê Duẩn sau cái chết của HCM.

Bài thứ năm của tác gia? Bùi Xuân Quang có tựa đề thật dài, Trải qua một cuộc “bể dâu” Chiến tranh chống Pháp (1945-1946), Những điều trông thấy trong cuộc đời HCM.
Tác giả cũng mở đầu bài viết bằng tình trạng HCM bị lấn át bởi các phe nhóm thủ hạ: “…Ngày nay người ta được biết Hồ đã thường xuyên phải chịu áp lực của các đồng chí chiến đấu, hoặc bằng tình đồng chí, hoặc với kỷ luật đảng”. (12) Tác giả còn cho rằng tình trạng lấn át này đã có từ năm 1946 thể hiện qua việc khai chiến với Pháp. Theo tác giả, khi HCM sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau thì ở trong nước Võ Nguyên Giáp chuẩn bị chiến tranh và “Tổng bộ (Việt Minh) đã chấm dứt nhiệm vụ của Hồ và sẵn sàng đối đầu với Pháp… Thái độ cực đoan nóng lòng của tổng bộ ngày 19-12 (1946) đã dồn Hồ đến chân tường, đưa đến cuộc đảo chính trong nội bộ đảng” Nhưng tác giả nói tình thế cấp bách khiến đám thủ hạ “phải để Hồ khôi phục lại tình thế.” (13) Dù trải qua tình huống thăng trầm nào trong đời hoạt động thì HCM vẫn luôn là kẻ say mê quyền lực bất chấp các thủ đoạn gieo tai rắc họa khi cần thiết. Cho nên, tác giả kết tội HCM đã giết hại người quốc gia không khác nhà Hồ ở thế kỷ 15 chém giết không nương tay các con cháu nhà Trần. (14)
Tác giả trưng dẫn Lucien Laurat kể lại đã có lần HCM thổ lộ: “Tôi luôn đứng về phía quyền lực. Chỉ có bộ phận này mới có thể hậu thuẫn được cho tôi.” Tác giả còn nhắc đến một bức điện văn mà theo tác giả là hết sức kỳ cục, bởi vì bức điện ký tên Nguyễn Ái Quốc gửi cho HCM(!) để nói lên rằng “Hồ được Nguyễn hậu thuẫn”. Một câu nói khác của Hồ cũng được tác giả trích dẫn và cho là không kém kỳ cục:”Thà ngửi phân Tây còn hơn cả đời ăn phân Tàu”. Cuối cùng, tác giả kết án HCM và CSVN đã “cuỗm” lấy danh nghĩa độc lập để làm lợi cho phong trào CSVN, đồng thời “cấm đoán mọi quyền lực có thể xuất phát từ các đối thủ chính trị”.

Bài thứ sáu, Chính sách cải cách ruộng đất của HCM: sai lầm hay tội ác? của Lâm Thanh Liêm gồm 2 phần chính:
1) Các giai đoạn (chuẩn bị và thực hiện)
2) Kết quả.

Hà Nội kết án tử hình vắng mặt cho Hoàng văn Hoan sau khi ông ta trốn sang Tàu.


Tác giả dựa theo những tài liệu chính xác về chiến dịch cải cách ruộng đất của CS tại miền Bắc và dành phần cuối nói rõ về vai trò của HCM. Về kết quả, tác giả trưng dẫn lời của một
số cán bộ từng phụ trách công tác Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc những năm 1955-56 mà tác giả được gặp ở Saigon trước khi vượt biên ra nước ngoài: “Một cán bộ ước lượng 120 ngàn người bị giết oan (trong số này có 40 ngàn đảng viên). Một cán bộ thứ nhì ước lượng có khoảng 150 ngàn đến 160 ngàn người bị giết oan (trong đó có khoảng 60 ngàn cán bộ đảng viên). Tác giả dẫn thêm hồi ký của Hoàng Văn Hoan về sự tàn ác dã man trong Cải Cách Ruộng Đất, dù Hoàng Văn Hoan chỉ tả lại một phần nhỏ sự thực. Hoàng Văn Hoan đã viết: “Các đội cải cách đã để cho nông dân xỉ vả người bị gọi là địa chủ, thậm chí để cho nàng dâu xỉ vả mẹ chồng, con xỉ vả bố mẹ, mà người bị gọi là địa chủ cứ phải cúi đầu chịu, không được thanh minh phải trái…” Theo tác giả, Hoàng Văn Hoan xác nhận chính tác phong gia trưởng và ý thức tả khuynh của Trường Chinh “đã đưa đến những sai lầm nghiêm trọng là đánh tràn lan vào trung nông, phú nông và những người có một ít ruộng đất cho thuê, đánh tràn vào cả cơ sở đảng.” Tuy nhiên, tác giả không hoàn toàn chia xẻ cáo giác trên mà nghĩ rằng tác phong của Trường Chinh chỉ chịu một phần nhỏ trách nhiệm thôi, bởi lẽ “đánh tràn lan…. không phải là không có chủ ý. Bởi vì trung nông, phú nông, hay đảng viên nào mà không chịu tuân theo đảng một cách vô điều kiện, còn dám phê bình chống đối hay nghi ngờ đảng, thì bị gán cho tội địa chủ để thủ tiêu cho hết những phần tử đối kháng, hầu sau đó, đảng toàn quyền sinh sát trong mọi vấn đề mà không gặp trở ngại gì. Đó mới là điều quan trọng, và vì thế nên đảng và nhà nước lúc ấy mới tuyên bố Cải Cách Ruộng Đất đã thành công hay thắng lợi. Sửa sai chỉ là phụ, với mục đích xoa dịu sự chống đối, và cũng nhân thể giăng một cái bẫy khác hòng bắt thêm một mớ trí thức, văn nghệ sĩ…”
Tác giả bác bỏ luận điệu của Hoàng Văn Hoan trút hết tội cho Trường Chinh, vì cho rằng Trường Chinh không thể một mình chủ xướng một công việc cực kỳ quan trọng như vậy do trước hết trên đầu Trường Chinh vẫn luôn luôn còn có HCM vừa là chủ tịch đảng, vừa là chủ tịch nhà nước.

Bài thứ bảy, Đất nước mới, con người mới, xã hội mới: mẫu mực cu. Hồ đưa ta về đâu? là bài của Đinh Trọng Hiếu, một chuyên gia về dân tộc thực vật học.
Tác giả mở đầu bằng câu danh ngôn của HCM “không có gì quý hơn độc lập tự do” rồi từ tốn nêu ra những vi phạm quyền độc lập và tự do của cái đảng do HCM lãnh đạo. Với tư cách chuyên viên về dân tộc thực vật học, tác giả ghi trong mục “đất nước mới” về công lao HCM cổ võ trồng cây không đúng cách để ngày nay dân chúng trong chế độ do ông lập nên tha hồ phá rừng và phá núi vôi, làm hại môi sinh… Trong mục “con người mới”, tác giả viết: “cách đào tạo con người “mới” của cu. Hồ đã phá sản. Nhưng đó là phá sản tất yếu của ý chí chủ nghĩa, chưa có gì đáng lo. Quan trọng hơn: khi đã coi “chủ nghĩa anh hùng cách mạng” là phương cách chỉ đạo, dùng bạo lực làm phương tiện cốt cán, lấy căm thù làm động cơ hành động, thì dần dà đưa con người cách mạng “mới” vào con đường không lối thoát”. Tác giả trích báo chí trong nước để minh họa tính sa đọa cùng cực của “con người mới”: “Lái xe coi mạng người như ngóe, vì còn quen cách lái dưới bom và dọc đường mòn HCM, coi luật pháp như loài xa xỉ phẩm. Giải quyết những việc hàng ngày, dùng súng, dao găm, lựu đạn vv…là điều hay gặp, báo chí vẫn đăng. Cái dã man đã vào nếp sống: đi đường thấy bà cụ ngã xe không ai đến đỡ (Hà Nội, Bờ Hồ, 30-10-1989); trời mưa lụt lội, thấy một thiếu nữ ngã ướt hết quần áo, cả phố vỗ tay cười (Hà Nội, Kim Liên, 15-10-1989, 13.30 giờ)…Con mất tiền bắt cha thề là không ăn cắp, cha phải thắp hương và chặt ngón tay (đã đăng báo); con cãi mẹ cầm chầy đập vào thái dương, bà cụ chết giãy đành đạch (đầu tháng 9-1989, nhà hàng xóm, nông thôn Bắc bộ) vv và vv…”
Trong mục “xã hội mới”, Đinh Trọng Hiếu trích đăng lại hai câu trong bài tham luận Nguyễn Ái Quốc đọc tại đại hội đảng xã hội Pháp ở Tours, năm 1920, về tự do và 2 vần thơ của HCM để
kết luận ông Hồ đã tiên tri, ngày nay xã hội VN y hệt như vậy. Hai câu nói trước đại hội Tours của HCM: “Chúng tôi không có tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội
họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền sống hoặc đi du lịch nước ngoài”
Và, 2 vần thơ của HCM:

Thân người chẳng khác thân trâu,
Cái phần no ấm có đâu đến mình.

Tác giả trích thêm 4 câu thơ khác của HCM:

Sức còn yếu tuổi còn thơ
Mà đã khó nhọc cũng như người già
Có khi lìa mẹ lìa cha
Để làm tôi tớ người ta bên ngoài.

Mượn lời một tác giả vô danh thuật truyện, tại kinh đô, đạo Phật mất hết ý nghĩa, chỉ còn những từ ngữ rỗng không, tác giả kết thúc với câu tiên đoán bi thảm về tình trạng xã hội
VN, dưới triều đại HCM: “Miệng Phật nín thinh. Đêm mạt pháp bắt đầu.”

Bài thứ tám, Huyền thoại HCM, do Olivier Todd viết và Nguyễn Văn chuyển ngữ. Olivier Tođ là nhà văn, nhà báo Pháp nổi tiếng từng điều khiển 2 tờ tuần báo Le Nouvel Observateur – Người Quan Sát Mới và L’Express – Tin Nhanh. Oliver Todd cũng viết nhiều tác phẩm về VN được hâm mộ, trong đó có Vịt Cà Mâu, Saigon thất thủ, Tháng Tư Đen – Le cruel Avril và tác phẩm mới nhất, Cuộc thương thuyết – La négotiation. Ban đầu Oliver Tođ là người ca ngợi chính nghĩa giải phóng dân tộc của HCM nhưng sau 1975, thái độ của ông đổi hẳn.
Mở đầu bài viết, tác giả nhận xét tổng quát: “Hồ chắc chắn là một lãnh tụ có tầm vóc: ông ta chiếm và giữ quyền hành – với một giá quá đắt… Nhưng lưu danh thơm? Không! Lưu xú thì
đúng hơn, đó là người đã đầy đọa dân hơn là giải phóng dân.”

Sau đó tác giả đưa ra những hình ảnh HCM do thủ hạ và những nhà báo thiên tả tô vẽ: Đi dép râu, trong sạch như thánh, khắc khổ, ăn ít, một thứ thánh Phan-xi-cô thành Assise của chủ thuyết Lênin. Đặc biệt là “có thể khóc bất cứ lúc nào (chùi mắt trong khăn tay đỏ)…Người ta có thể tin dễ dàng rằng “bác” dường như mềm dẻo hơn đám thuộc hạ. Bồ câu trong đám diều hâu. Cũng như Staline dưới mắt đại sứ Mỹ trước đệ nhị thế chiến.” (15)
Olivier Todd gọi một loạt tác phẩm “nịnh bợ” HCM của những nhân vật như Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp… là loại thô lỗ, đê tiện. Về phía các tác giả ngoại quốc, Olivier Todd nêu đích danh Wilfred Burchett, một tác gia? CS Úc cùng với Jean Chesneaux, Philippe Devillers và mệnh danh đây là những tên hề của lịch sử, vì không cải chính sau khi đã biết mình sai. Olivier Todd nhắc nhiều đến cuốn Fire in the lake – Lửa trong hồ của bà Frances Fitzgerauld (đã tạ ơn sư phụ là Paul Mus), và đặc biệt là cuốn viết về HCM của Jean Lacouture. Olivier Todd khen cuốn sách viết hay:”Lacouture đã viết bằng sự cuồng nhiệt của ông quan tòa tự ăn năn và cái duyên dáng của một nữ danh ca lỗi lạc.” Nhưng sau đó Olivier Todd dành hơn 10 trang sách phơi bày những sai trái trong cuốn sách của Lacouture. Olivier Todd nêu nhiều cuộc tàn sát thủ tiêu đối lập thuộc đủ mọi phe phái không CS trong khoảng 1945-46 để bác bỏ ý kiến của Lacouture cho rằng HCM không thích bạo động và kết luận: “Trong nhãn giới của J. Lacouture có một khoảng tối om khiến ông ta cũng như lâu la của ông ta không
thấy được sự thật.” Tuy vậy, tác giả vẫn mong Lacouture sẽ lên tiếng để góp phần dựng lại bức chân dung chính xác: “Không một Lacouture nào có trách nhiệm trong công cuộc CS hóa VN. Ông ta chỉ có lỗi bóp méo sự thực, tuyên truyền xuyên tạc khoảng 20 năm. Chúng ta mong mỏi Lacouture trở lại vấn đề VN, phá tan huyền thoại HCM. Chưa trễ lắm đâu.”
Trong phần kết luận, tác giả viết về HCM: “Phương trình cá nhân “cách mạng” của Hồ rất đơn giản: Nhu trí (software) sản xuất từ Moscow. Mỗi lần gặp khó khăn trầm trọng, bò về với mấy ông Bolshevik để học hỏi, lãnh chỉ thị. Cương trí (hardware), từ Tàu, Hồ dùng nơi đó làm thí nghiệm và là bàn đạp để chiếm VN. Thêm vốn liếng riêng của cá nhân Hồ, thơ, thuốc, tiếu ngạo chẳng có giá trị gì trong cuộc chơi đã được ấn định sẵn. Hồ có khả năng che đậy tài tình, có tài làm đầu đảng, tính quyết định và tàn ác dị thường.”
Và đây là những dòng cuối bài: “VN quốc gia không cung cấp nổi cho dân mìền Nam một ý thức hệ có khả năng chống chọi với CS của Hồ ở miền Bắc. Phe quốc gia cũng không có một huyền thoại nào có thể đem ra so sánh với Hồ. Ngày nay người ta biết thế nào là Staline. Phải chờ một thời gian nữa để cho bộ mặt thật của Hồ từ huyền thoại đi trở về lịch sử, về với
giới trí thức và quần chúng. Chiến thắng cuối cùng của Hồ: Lăng và xác ướp của “Bác” ở Hà Nội. Người đi viếng phải đi rất nhanh: Chết hay sống, chúng ta không có quyền nhìn Hồ quá
lâu, hoặc quá gần.”

Bài cuối cùng, Vị trí HCM trong diễn tiến của tình trạng nhơn quyền tại VN, Nguyễn Ngọc Huy dành 58 trang chứng minh chế đô. CS mà HCM xây dựng ở VN thua cả chế độ quân chủ lẫn chế độ thực dân về đủ mọi phương diện: chính trị, tư pháp, kinh tế, xã hội.
Tác giả trích dẫn nhiều sự việc cụ thể đối chiếu với những lời tuyên bố của chính HCM tạo một sức thuyết phục rõ rệt cho mọi ý kiến phê phán. Tác giả còn chứng minh lập luận của mình bằng nhiều điểm tựa dựa trên lý thuyết CS, kinh điển Nho Gia, Pháp Gia, Hàn Phi thời phong kiến, các bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Pháp, bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948 và các bộ luật VN thời quân chủ vv…Ví dụ, tác giả nhắc lại vài thực tế đời sống dưới thời Pháp thuộc: “Về mặt học thuật người VN không còn phải hạn chế sự suy luận trong khuôn khổ của đạo lý lưu hành thời quân chủ. Các học thuyết và tư tưởng Tây phương mọi loại đã du nhập xã hội VN. Trong số này có cả học thuyết và tư tưởng chống chọi lại ý thức hệ dân chủ tự do lưu hành tại Pháp, như các học thuyết và tư tưởng Phát xít hay Marx-Lênin chẳng hạn.
– Quyền tự do tín ngưỡng được tôn trọng.
– Các báo và sách viết bằng tiếng Pháp được xuất bản tự dọ . Trong đó mọi người được tự do phát biểu ý kiến về mọi vấn đề.
– Một số cơ quan đại diện dân chúng được thành lập như hội đồng tỉnh, thành phố, viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ

…Các cuộc bầu cử thực sự tự do. Từ 1933 đến 1939, những người theo đệ tứ Quốc Tế thuộc nhóm Tranh Đấu, tuy chống đối Pháp một cách công khai và mạnh mẽ, đã nhiều lần đắc
cử vào hội đồng thành phố Saigon, và năm 1939, liên danh của họ cũng đã đắc cử vào hội đồng quản hạt Nam Kỳ”.
Tác giả dẫn chứng CS không chịu ký tên trong bản quốc tế nhân quyền 1948 (mãi thời Gorbachev mới ký muộn) lấy cớ nó chỉ là hình thức. “Nhưng vì chế đô. CS không chấp nhận các nhân quyền Tây phương mà các nhân quyền “có thực chất” của họ lại chỉ thể hiện được trong tương lai xa vời không hạn định – lúc chế đô. CS đã hoàn thành – nên trong thực tế, người dân trong chế đô. CS hoàn toàn không được hưởng nhân quyền nào. Bởi đó, tại VN, về mặt nhân quyền, chế đô. CS đã thoái bộ hơn cả chế độ thực dân lẫn chế độ quân chủ.” (16)
Tác giả mượn ý trong thơ Nguyễn Chí Thiện (còn trong tù CS) để kết thúc bài viết: “Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, một nạn nhân của những vi phạm nhân quyền thời CS lãnh đạo VN, đã bảo rằng phải hàng triệu năm tổ tiên loài người mới tiến từ trạng thái vượn lên trạng thái người, nhưng chế đô. CSVN chỉ trong mấy năm đã đẩy người VN ngày nay lui về trạng thái làm vượn. Khi chủ trương suy tôn HCM, phải chăng các nước hội viên của tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) có ý muốn tuyên dương thành tích hãn hữu này?”

Trong bài viết, tác giả không nêu đích danh HCM mà chỉ nói chung về CSVN, nhưng trước mắt tác giả, CSVN đã được đồng hóa với HCM và vì thế, tất cả tội ác của CSVN cũng chính là tội
ác của HCM. CSVN không thể được hiểu là gì khác ngoài sản phẩm do HCM tạo ra theo chỉ thị của Quốc Tế CS nên mọi hành vi của CSVN không thể đặt khỏi vòng trách nhiệm của HCM.

Chú thích

(01)-(02)-(03)-(04)-(06) SD tr. 13, 45, 65, 72, 73
(05) Ghi chú của Mandelstam được tác giả trích dẫn.
(07)-(08)-(09)-(10)-(11) SD tr. 77-78, 85, 90, 103, 118
(12)-(13)-(14)-(15)-(16) SD tr 154, 157, 161, 278, 345

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links: Ong Vò Vẽ