Cừu non cáo già! – Chu chi Nam và Vũ văn Lâm

Ảnh quan chức Tàu, Việt tham dự Hội nghị Thành Đô 1990. Nguồn Sina.

 

Bài đọc suy gẫm: Cừu non cáo già! tức bài nhận định về Hội nghị Thành đô 1990 giữa Việt Nam và Trung Cộng. Tác giả Chu chi Nam và Vũ văn Lâm. Hình ảnh chỉ là minh họa.

Tù binh Chiến tranh 1979.

VỀ HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ

 

Từ khi xẩy ra Hội nghị Thành Đô vào ngày 3 và 4/tháng 9/năm 1990 tới nay, cộng sản Việt Nam không ngừng dâng đất, nhượng biển và qụy lụy Trung cộng. Từ đó có người cho rằng đây là một hội nghị bán nước.

Có phải thế không ?

Chúng ta cùng nhau xem xét vấn đề.

I )  Tình hình thế giới cộng sản trước Hội nghị Thành đô

–         Tình hình tại Liên sô

Tình hình Liên sô trước Hội nghi Thành đô 1990 là một tình hình: kinh tế thì đổ nát, chính trị thì không những dân, mà chính giới lãnh đạo, từ dưới lên trên, phần lớn hết tin tưởng vào chính quyền, vào đảng Cộng sản. Bắt đầu bằng Brejnev, Tổng bí thư, trước khi chết, đã phải than lên: « Xã hội chủ nghĩa gì mà 1/3 xe chạy ngoài đường là ăn cắp săng của công, 1/3 bằng cấp là bằng cấp giả, công chức đến sở làm việc là đến cho có mặt, sau đó thì đi coi hát hay làm việc riêng. » Thêm vào đó, khi Brejnev chết, hai ông già lên thay, vừa bệnh hoạn, vừa chết sớm, Andropov, cầm quyền từ 1983 tới 1984, Tchernenko, lên thay, nhưng chỉ mấy tháng sau thì bệnh nặng, không thể cầm quyền, thực quyền ở trong tay Gorbatchev, cho  tới khi Tchernenko chết, Gorbatchev lên ngôi chính thức vào năm 1985.

Gorbatchev nhận một gia tài cộng sản đổ nát, muốn cải tổ, tuy nhiên lúc đầu ông còn thận trọng, chỉ dùng những biện pháp nhỏ, như đưa ra những đạo luật xử phạt mạnh tham nhũng hối lộ, cấm dân nghiện rượu, cấm công chức bỏ giờ làm việc, và đồng thời cho xe đi hốt những người dân chán nản, thất vọng, uống rượu nằm đầy đường, bắt những công chức trong giờ làm việc mà lại có mặt ở những tiệm rượu hay những nhà hát. Nhưng những biện pháp này không đi đến đâu, tham nhũng hối lộ vẫn lan tràn, dân vẫn mất tin tưởng, vẫn uống rượu, không có rượu thì pha chế với alcool để uống, kinh tế vẫn đình trệ. Thêm vào đó, những quốc gia bị Nga hoàng và Lénine sát nhập vào Nga, bắt đầu nổi lên đòi tự trị. Đấy là chưa nói đến những vùng bị đe dọa bởi nạn đói. Đến nỗi Gorbatchev, sợ phải than lên:« Tiếng kêu của song chảo, nồi niêu còn ghê sợ hơn tiếng súng đại bác và xe tăng. »

Người xưa có nói: «  Họa vô đơn chí. Phúc bất trùng lai « (Tai họa không đến một lần. Phúc không trở lại lần thứ hai). Tình trạng quốc gia xã hội thì đã như vậy, đùng một cái, ngày 25/4/1986, nhà máy nguyên tử Tcherbobyl bị nổ. Đây là nhà máy được Liên sô xây vào năm 1977, khánh thành năm 1983, tại phía bắc thủ đô Kiev của nước Ukraine ngày hôm nay. Nhà máy nguyên tử này nổ ra mới cho dân và thế giới thấy tình trạng tồi tệ của nước Liên sô về hạ tầng cơ sở. Để chữa cháy, ngăn cản phóng xạ thoát ra ngoài, người lính không có một bộ đồ mặc chống phóng xạ, họ phải dùng những chiếc áo mưa. Lúc đầu, cơ quan cấp dưới còn dấu diếm, nhưng sau không thể, phải báo cáo lên cấp trên, tới Gorbatchev.

Từ lúc này Gorbatchev mới thấy không thể dùng những biện pháp cải tổ nhỏ, mà phải cải tổ sâu rộng, nên đã đưa ra :

–         Chính sách Trong sáng ( Glasnost ), cấm cơ quan cấp dưới che dấu sự thật, phải làm những bản tường trình trong sáng, nói lên sự thật.

–         Chính sách tái cấu trúc ( Pérestroika), để được như vậy, thì phải tái cấu trúc guồng máy quốc gia, cách chức những công chức tham nhũng hối lộ, bất tài, dựa vào con ông cháu cha mà được lên chức, từ từ thực hiện bầu cử tự do, cho phép đối lập hoạt động, báo chí được quyền nói lên sự thật.

Có người tố cáo Gorbatchev là người của CIA, Cơ quan tình báo Hoa kỳ, gài vào để làm sụp chế độ cộng sản. Thực ra không phải vậy. Không có một bằng cớ, một tài liệu nào chứng tỏ ông là người của CIA. Ông chỉ muốn cứu và cải tổ một chế độ không thể cải tổ được mà chỉ có thay thế; và con đường ông đi là con đường tất yếu của lịch sử, nếu muốn nghĩ đến dân, đến nước, nếu muốn theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.

Thực vậy, căn nhà xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên một nền móng sai lầm là lý thuyết Mác Lê. Marx chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu, đấu tranh giai cấp. Bãi bỏ quyền tư hữu có nghĩa là bãi bỏ một nguyên động lực chính thúc đẩy con người làm việc, đưa xã hội cộng sản lâm vào cảnh « Cha chung không ai khóc. Nhà chung không người chăm sóc. Ruộng chung không ai cày. » Người dân đến hợp tác xã là để có mặt, làm việc cho lấy có, mang tâm trạng «  Ta làm việc nhiều cũng chỉ lãnh lương như người làm ít hay không làm. » Đã từ lâu, những máy cày, xe cộ của hợp tác xã, bị bỏ mục nát ở ngoài đồng. Số khoai lang đào được, 1/3 để hư thối ở ngoài đồng, 1/3 hư thối vì chuyên chở và bảo trì không cẩn thận ở trong kho.

Ông Jegor Gaida, người đã từng làm Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng bộ kinh tế thời Tổng thống Boris Eltsine, thì cho rằng sở dĩ có sự sụp đổ của Liên sô là vì khí đốt và dầu hỏa, trong một quyển sách ông viết sau khi không còn tại chức. Theo ông, vào những năm 70, giá khí đốt và dầu hỏa tăng, Liên sô là quốc gia xuất cảng 2 thứ này, nên nguồn thâu nhập tăng. Chính vì vậy mà suốt thời Brejnev làm Tổng bí thư từ năm 1964 tới năm 1983, Liên sô không những chạy đua vũ khí với Hoa kỳ, làm ông chủ thầu, đặt vũ khí ở những nước đàn em, như Ba lan thì sản xuất tàu thủy, Đông Đức thì sản xuất xe tăng, Tiệp khắc thì sản xuất súng AK47 v.v… Nhưng đến những năm 80, thì giá khí đốt và dầu bắt đầu giảm, khiến phần thu nhập của Liên sô cũng giảm, lôi theo các nước đàn em.

Phần nhận xét này của ông Gaida không phải là không đúng, nhưng nó chỉ là một phần và có tính cách ngắn hạn. Một đế quốc, một triều đại sụp đổ tất nhiên là đến từ nhiều nguyên nhân: nguyên nhân gần, nguyên nhân xa, nguyên nhân trung hạn, nguyên nhân thật xa.

Nguyên nhân sụp đổ thật xa của của Liên sô bắt đầu từ nền tảng triết học của Marx, như trên đã nói là chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu.

Nguyên nhân trung hạn đó là tư tưởng của Lénine lập nên nhà nước độc đảng, độc tài, áp dụng lý thuyết không tưởng của Marx, trong những đợt đánh tư bản mại sản, giết chết hết giai tầng trung lưu.

Chính Boris Eltsine, đã từng là người cộng sản, Uỷ viên Bộ Chính trị, phải than lên khi ông làm Tổng thống xứ Nga: « Nước Nga đã không còn giai tầng trung lưu, giai tầng năng động và là xương sống của xã hội. Đâu còn những con người tháo vát, chỉ cần tay cầm một con dao lớn, đi vào rừng, rồi tạo nên tất cả, nhà để ở, ruộng để cấy lúa, đất để trồng trọt, không những nuôi sống thân mình, gia đình mình, mà còn những gia đình khác. »

Ngoài ra còn nhiều những nguyên nhân khác, như Chiến tranh lạnh, Hoa kỳ nhằm đánh cộng sản, dụ Liên sô vào một cuộc chạy đua vũ trang, lâm vào cảnh kẻ nghèo thi đua tiêu tiền với kẻ giàu.

Từ đó mang lại những nguyên nhân gần, tham nhũng, hối lộ, dân mất hết tin tưởng vào Đảng Cộng sản và chính quyền, trước cuộc sống khó khăn, càng ngày càng bế tắc, dân sinh ra nghiện rượu.

Thế giới trước năm 1990 còn bị đè nặng dưới áp lực của Chiến tranh lạnh, gồm 2 khối : Khối cộng sản lãnh đạo bởi Liên sô, mặc dầu có sự tranh quyền của Trung cộng, Khối tư bản dưới sự lãnh đạo của Hoa kỳ. Vì vậy tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Liên sô có ảnh hưởng trực tiếp không những đối với những nước cộng sản, mà còn đến cả thế giới.

Trong khuôn khổ bài này tôi chỉ xin nói về ảnh hưởng của Liên số đối với Việt Nam, Trung cộng và tất nhiên ảnh hưởng đến Hội Nghị Thành đô 1990.

I I )  Tình hình Việt nam sau khi Lê Duẫn chết vào tháng 7/1986, trước Hội nghị Thành đô

Có thể nói Lê Duẫn là người cuồng tín theo Liên sô, đúng hơn là theo Brejnev, tự biến Việt Nam thành một con chốt trong bàn cờ tranh hùng tư bản – cộng sản, theo kế hoặch của Brejnev.

Brejnev lên chức Tổng bí thư năm 1964, sau khi hạ bệ Khrouschev, ông này bị chỉ trích là đã mềm yếu trước tư bản vì cho rằng « Tư bản mạnh « chủ trương chính sách hòa hoãn với tư bản, quay về sửa sai chế độ cộng sản. Chính vì vậy mà khi lên ngôi Tổng bí thư năm 1953, chỉ ba năm sau, 1956, Khrouschev tố cáo chính sách  tôn thờ cá nhân của Staline, chủ trương bắt tay với Hoa kỳ, «  Chung sống hòa bình «, «  Nguyên tử phục vụ hòa bình «.

Brejnev hoàn toàn chủ trương ngược lại, cho rằng khối cộng sản không yếu như người ta tưởng, khối tư bản không mạnh như người ta nghĩ, mà ngược lại. Vì vậy ông chủ trương quên đi những khó khăn nội bộ, đẩy mạnh cuộc chiến chống tư bản, sau khi chiến thắng tư bản trên toàn thế giới, lúc đó trở về sửa sai cũng không muộn. Brejnev đã đưa ra một chiến lược gồm 2 kế sách: Thượng sách đẩy mạnh công cuộc chống tư bản ở mọi nơi trên thế giới, đưa đến chỗ tư bản phải sụp đổ tất yếu như lời dạy của Marx. Trung sách, nếu không thì chia đôi thế giới lấy trục Sài Gon, Phnom Penh, Bangkok, Kaboul, Moscou làm giới tuyến, bên này phía đông thuộc về công sản, bên kia phía tây thuộc về tư bản.

Chính sách của Brejnev có vẻ hấp dẫn, được đa số trong Trung ương đảng nghe theo, nên có việc hạ bệ Khrouschev vào năm 1964.

Brejnev dùng ba con chốt chính để thực hiện chiến lược của mình : Bên châu Mỹ, Phi châu thì dùng Cuba với Phidel Castro; bên Âu châu thì dùng Đông Đức; bên Á châu thì dùng Việt Nam. Lê Duẫn là con chốt trung thành bậc nhất của Brejnev

Brejnev sửa sọan thượng sách trong vòng 4 năm và bắt đầu tấn công tư bản, như ở Việt Nam chúng ta thấy có Tết Mậu thân 1968, ở Âu châu và ngay ở Mỹ châu có « Phong trào Hòa bình «, những cuộc biểu tình phản chiến, sinh viên xuống đường, đứng đằng sau là những đảng cộng sản, những trí thức thân tả, bên Phi châu thì có những cuộc đảo chính thân cộng sản như ở Ethiopie v.v…

Quả thực lúc đầu có những kết quả ngoạn mục, thế giới tư bản, ngay cả tại Mỹ, có những cuộc biểu tình cả triệu người, thế giới tư bản quả thật bị rung rinh. Tuy nhiên đấy chỉ là kết quả có vẻ ngoạn mục lúc ban đầu, nhưng thế giới tư bản không sụp, mà ngược lại, ngân sách chi phí ra bên ngoài của Liên sô càng ngày càng tăng. Nói như một viên tướng Liên sô lúc bấy giờ:« Những thành quả gặt hái của Liên sô không làm tư bản lay chuyển, mà chỉ là những gánh nặng, những chương mục thêm để Liên sô gửi tiền giúp đỡ. »

Thêm vào đó tư bản, đứng đầu là Hoa kỳ, lại tìm cách khai thác tối đa sự bất đồng giữa Trung cộng và Liên sô. Nên có việc Nixon gặp Mao ở Bắc kinh, ra tuyên bố chung ở Thượng hải năm 1972.

Có người nói, thượng sách của Brejnev được thực hiện trong vòng 8 năm, từ năm 1964 tới 1972, thì chấm dứt, Brejnev phải quay ra thực hiện trung sách, chia đôi thế giới, giữ những gì mình đã gặt hái được.

Chính vì vậy mà có việc Liên sô gửi quân sang xâm chiếm A phú hãn, ký hiệp ước quân sự với Việt Nam và cộng sản Việt Nam gửi quân qua xâm chiếm Căm bốt năm 1978, để làm giới tuyến cộng sản tư bản Sài Gòn – Phnom Penh – Bangkok – Kaboul – Moscou như vừa nói ở trên.

Người khác lại cho rằng thượng sách được kết thúc vào năm 1975, thực ra là vào ngày 1/8/1975, ngày ký Hiệp ước Helsinski, chỉ sau khi quân đội cộng sản xua quân vào cưỡng chiếm miền Nam Việt nam khoảng 3 tháng.

Trong khi cộng sản Việt nam mù quáng vui mừng « chiến thắng » và còn có người u mê đến nỗi cho rằng trong tương lai sẽ « gửi quân sang giải phóng Hoa kỳ « , không biết gì đến tình hình thế giới và ngay cả tình hình khối cộng sản, thì Brejnev, một chỗ dựa « vững chắc «  của Lê Duẫn, đã phải lùi bước, đi từ thế công sang thế thủ ở Hội nghị Helsinki, Phần Lan, họp vào cuối tháng 7, gồm các nước Âu châu cộng thêm Hoa kỳ và Gia nã đại. Ở Hội nghị này, Brejnev yêu cầu các nước Âu châu cộng với Hoa kỳ và Gia nã đại công nhận : 1) Biên giới sẵn có của Âu châu, nhất là giữa Liên sô, Ba lan và Đức, lấy sông Oder làm ranh giới, vì vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, Staline đã chiếm một phần lãnh thổ của Ba lan, và bù lại thì lại lấy một phần lãnh thổ của Đức sát nhập vào Ba lan ; 2) Yêu cầu thế giới chấp nhận học thuyết Brejnev, theo đó, những nước dưới sự ảnh hưởng của Liên sô chỉ có độc lập giới hạn và Liên sô có quyền gửi quân đến những nước này nếu cần.

Ngược lại thế giới tự do yêu cầu Liên sô phải mở cửa kinh tế để buôn bán với các nước tự do, không thể phá sóng những đài tự do chuyển vào thế giới cộng sản, phải thả một số tù nhân lương tâm.

Khi tham dự và ký những điều khoản của Hiệp ước Helsinski, có một người tướng của Cơ quan Quân báo Liên sô cho rằng « Liên sô ký Hiệp ước này là đã để cho tư bản chọc thủng phòng tuyến của mình «. Điều nhận xét của viên tướng này cho tới ngày Liên sô sụp đổ, quả không sai.

Trở về tình hình cộng sản Việt nam, vẫn u mê với « Chiến thắng «, vẫn nghĩ rằng «  Tư bản đang giãy chết «, «  Cộng sản sẽ toàn thắng trên toàn thế giới «, họ vẫn ở kế thượng sách của chiến lược Brejnev, trong khi ông này đã phải lùi về kế trung sách. Chính vì vậy mà cộng sản Việt nam xua quân sang xâm chiếm Căm bốt năm 1978 và còn hăm he tiến đánh Thái lan. Tuy nhiên cả Liên sô và cộng sản Việt nam, một bên thì bị sa lầy ở Căm bốt, bên kia thì bị sa lầy ở A phú hãn.

Đấy là chưa nói đến sự kiện Hoa kỳ và Trung cộng xích lại gần nhau hơn. Đặng tiểu Bình đã trở lại chính quyền năm 1976 và 2 năm sau 1978 nắm thực quyền, đã vội vã sang thăm Hoa kỳ năm 1979, đóng vai một người Hoa Kỳ, đội mũ cao bồi, đi xem đua ngựa. Cùng năm 1979, thì xua quân vượt biên giới « Dạy cho Việt nam một bài học ».

Từ ngày Hội nghị Helsinski tới ngày Brejnev chết, tình hình thế giới cộng sản càng ngày càng xấu đi, tại quốc nội cũng như quốc ngoại.

Quốc nội thì nói chung các nước cộng sản, kinh tế càng ngày càng tồi tệ, dân bất mãn, bỏ nước ra đi như ở Việt nam, tại Liên sô thì dân sinh ra nghiện rượu; quốc ngoại thì xẩy ra tranh chấp Việt – Căm bốt, Việt – Hoa, Nga – Hoa. Tranh chấp Nga – Hoa trở nên cao độ. Hoa kỳ lợi dụng tình thế này để chia rẽ thế giới cộng sản.

Brejnev chết là một mất mát lớn với cộng sản Việt nam, đặc biệt là với Lê Duẫn, người tuân thủ bất cứ một mệnh lệnh gì và sẵn sàng làm con chốt thí thân cho chiến lược của ông này. Brejnev chết đi, tình hình Liên sô cũng không có gì sáng sủa, hai ông già lên thay, Andropov và Tchernenko, trong vòng 2 năm, cho tới khi Gorbatchev kế vị, rồi thế giới cộng sản Liên sô và Đông Âu sụp đổ. Trong thời gian này thì Lê Duẫn của Việt Nam vẫn cầm quyền cho tới tháng 7/1986.

Khi Lê Duẫn chết, người lên kế vị với chức vụ quyền Tổng bí thư là Trường Chinh, vì lúc đó theo thứ tự trong đảng thì đứng đầu là Lê Duẫn, thứ nhì là Trường Chinh, thứ ba là Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ đứng mãi thứ 6. Trường Chinh sang Liên sô 2 lần vào tháng 7, tháng 8, mong được sự chấp nhận của Gorbatchev, vì lúc này Gorbatchev đã lên ngôi. Nhưng ông này không chịu, khuyên những người già nên về hưu, nhường chỗ cho những người trẻ. Lợi dùng tình thế này, Lê đức Thọ kéo theo Trường Chinh và Phạm văn Đồng, ba người đều từ chức, về hưu. Nhưng trên thực tế là khi Lê Duẫn chết, con người quyền lực nhất lúc bấy giờ là Lê đức Thọ, vì con người này mặc dầu đứng thứ sáu, thứ bảy, nhưng nắm giữ chức vụ tổ chức nhân sự trong đảng, có nhiều vây cánh, ác ôn côn đồ, gian manh, xảo quyệt, đầu óc bè phái, gia tộc rất mạnh.

Mặc dầu rút vào trong bóng tối, nhưng Lê đức Thọ đưa hết tay em của mình vào những chức vụ quan trọng trong đảng và chính quyền:

Nguyễn văn Linh, người từng là tay em của Thọ trong thời gian ở Trung ương Cục miền Nam, nay lên làm Tổng bí thư. Đây là một con người vô nhân cách, không có lập trường chính trị rõ ràng, gió chiều nào theo chiều ấy, hoàn toàn bị khống chế bởi họ Lê, mặc dầu đảng cộng sản đã đánh bóng con người này, cho rằng đây là  con người  «  Nói và Làm « , vì ông có viết báo, lấy bút hiệu là N.V.L., ở báo Nhân dân; hay đây là một con người sáng suốt, bằng cả trăm cả ngàn ngọn nến không kém gì Lê Duẫn. Chúng ta thấy lúc đầu thì Linh chủ trương « Đổi mới «, nhưng sau đó lại đàn áp những nhà đối lập không khác chi thời trước. Điều đáng buồn cho Việt Nam là trong thời gian Hội nghị Thành Đô, thì chính con người vô nhân cách, không có lập trường chính trị này làm Tổng bí thư.

Về đảng thì đã là vậy, về chính quyền thì cũng là toàn tay em của Thọ, từ Đỗ Mười làm Thủ tướng, nhưng trước đó, vào thời chiến tranh chống Pháp, là Ủy viên ám sát của đảng ở vùng tả ngạn sông Hồng, gồm một phần Hà Đông, Nam định, Thái bình và Ninh bình, cũng là tay em của Thọ. Thêm vào đó em ruột của Lê đức Thọ là Mai chí Thọ ( cộng sản thay tên đổi họ) làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, công an. Lê đức Anh, người dưới quyền của Thọ ở miền nam, được Thọ cất nhắc lên chức Đại tướng, Tư lệnh đoàn quân sang xâm chiến Căm Bốt, được làm Bộ trưởng Bộ quốc Phòng; ngay cả Nguyễn cơ Thạch, Bộ trưởng Bộ ngoại giao, là người trong Phái đoàn thương thuyết về Hiệp định Paris 1973, mà Lê đức Thọ là cố vấn, nhưng là người nắm thực quyền.

Lê đức Anh là một anh cai phu đồn điền, mà người dân kêu là « Anh chột «, là một người ác ôn không kém Thọ, vì đánh phu đồn điền, nên bị nghỉ việc, sau đó theo cộng sản. Vì là đặc trách tổ chức nhân sự của đảng, nên Thọ nắm được hồ sơ này, nhưng giữ kín, để làm một con bài sau này để dễ bề khống chế. Việc này, những người am tường tình hình đảng cộng sản Việt nam đều biết.

Cũng về đảng, chính những người cộng sản cao cấp và gần Lê đức Thọ, ai cũng rõ ông này có ba biệt hiệu: « Anh Sáu búa «, « Anh Sáu Tú bà « và « Anh Sáu hèn. « Anh sáu búa vì Lê đức Thọ chủ trương dùng búa để đập đầu, giết người thay vì dùng súng đạn. Anh Sáu tú bà vì trong thời gian nắm Trung ương Cục miền Nam sau Lê Duẫn, thì nhiệm vụ chính của Thọ là kiếm gái miền Nam gửi ra miền Bắc để cống hiến cho Bác (tức Hồ chí Minh) và cho Đảng ( tức các ông lớn trong Bộ Chính trị và Trung ương đảng). Anh Sáu hèn vì khi «  Chiến thắng miền nam «  thì hãnh tiến, vác mặt lên trời, đã ra lệnh trục xuất Đại sứ Pháp, ông Mérillon lúc bấy giờ, ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiến đồng hồ. Sau đó, khi cần, thì sang qụy lụy Pháp, xin Pháp giúp đỡ, viện trợ, đi chữa bệnh, nằm ở nhà thương quân sự của Pháp Val de Grace lúc cuối đời.

Người xưa có câu: « Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã « ( Trâu thì đi với trâu, ngựa thì đi tìm ngựa), ngay cả Tây phương cũng có câu: « Dis – moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es « ( Hãy nói cho tôi người anh lui tới, tôi sẽ nói anh là người thế nào.)

Con người Lê đức Thọ là con người vừa hèn, vừa ác ôn côn đồ, thủ đoạn «  Mày theo tao thì mày có tất, nếu không thì tao sẽ giết mày «, vì vậy những tay em của hắn, từ Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Mai chí Thọ, và hôm nay còn một người cháu của ông ta là Lê hồng Anh, vừa mới sang Tàu qụy lụy Tập cận Bình, những con người này mang tất cả những tật xấu của Lê đức Thọ, cũng hèn nhát, ác ôn côn đồ, qụy lụy ngoại bang, tinh thần gia tộc, bè phái, không coi thể diện quốc gia, quyền lợi dân tộc ra gì.

Người ta có thể nói từ ngày Lê Duẫn chết tới nay, Việt Nam bị khống chế bởi gia tộc họ Lê, con cháu và tay em. Những vụ ám sát, thủ tiêu như vụ của tướng Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn, mà vợ con phải than lên: « Chồng và bố tôi bị người ta đầu độc chết v.v… « , tất cả xa gần đều liên quan đến gia tộc này và những tay chân, bộ hạ của nó.

Thực ra thi Lê đức Thọ họ Phan, tên thực là Phan đình Khải, người Nam định, có trình độ tiểu học, thời đó gọi là bằng Cao đẳng tiểu học, được Pháp lập ra, vào lúc đầu khi đã ổn định chế độ thuộc địa. Những người có cấp bằng này hoặc đi về làng dạy học, như Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam, mà người ta thường gọi là « Ông giáo Phú «, hay Nguyễn thị Minh Khai, cũng được gọi là « Cô giáo Khai «, và ngay cả Hồ chí Minh cũng đã từng làm ông giáo làng ở Phan Thiết; những người khác thì đi làm hỏa xa, tức sóat vé trên tàu xe lửa, trường hợp của Lê đức Thọ.

Lê đức Thọ còn 2 người em, làm tướng, trước và ngay cả sau năm 1975, nhất là từ khi Lê đức Thọ nắm thực quyền sau khi Lê Duẫn chết. Đó là Mai chí Thọ, tên thật là Phan đình Đống, làm đến chức vụ Bộ trưởng Bộ công an. Một người khác tên Đinh đức Thiện, tên thật là Phan đình Dinh, đặc trách về việc tiếp vận hậu cần, tương đương với Bộ trưởng Bộ Tiếp tế Lương thực. Có nguồn tin cho rằng Lê hồng Anh, đương kim Bộ Trưởng bộ Công An, đặc trách về Ban bí thư đảng ngày hôm nay, là con của Đinh đức Thiện. Nguồn tin này không phải không có lý. Một nguồn tin khác cho rằng ngay cả Nguyễn tấn Dũng, đương kim Thủ tướng hiện nay là con rơi của Mai chí Thọ, trong thời gian hoạt động ở miền Nam, sau đó đã ra ngoài Bắc, để lại cho Võ văn Kiệt làm con nuôi. Chính vì vậy, trong thời gian Võ văn Kiệt làm Thủ tướng, Mai chí Thọ làm Bộ trưởng Nội vụ, Nguyễn tấn Dũng đã lên như diều.

Tất cả những người con cháu, tay em của Thọ đều là những người giống Thọ, đầu óc gia tộc, bè phái rất lớn, sẵn sàng làm bất cứ giá nào để bảo vệ quyền lợi gia tộc và bè phái, dầu hèn hạ, qụy lụy ngoại bang hay ác ôn côn đồ.

Ngày hôm nay, cộng sản vẫn còn nắm quyền, gia đình họ Lê vẫn khống chế, sự thật vẫn bị che dấu, nhưng rồi trong tương lai sự thật sẽ được phơi bày. Như trường hợp Staline ra lệnh giết 20 000 sĩ quan Ba Lan là do Gorbatchev tiết lộ bí mật; gia đình Nga hoàng Nicolas 2 bị giết hại bởi Lénine là do Boris Eltsine không những cho mọi người biết mà còn tổ chức an táng trọng thể.

Thực ra trước khi Lê Duẫn chết, cộng sản Việt Nam cũng biết rõ Liên sô không còn là chỗ tựa vững chắc nữa, không còn là thanh trì cách mạng, «  là ngày mai tươi sáng của Việt nam «, nhất là khi Tchernenko chết, tất cả những Tổng bí thư của những đảng cộng sản đều phải sang để dự tang, Gorbatchev nói thẳng với mọi người có mặt rằng: «  Liên sô không thể giúp đỡ được nữa. Hiện nay muốn có hàng hóa của Liên sô thì phải mua và trả bằng ngoại tệ hay trao đổi hàng hóa. »

Chính vì vậy mà cộng sản Việt Nam đã chạy đôn chạy đáo, không còn sĩ diện quốc gia, dân tộc, đi van lạy các cường quốc.

Lúc đầu là với Mỹ. Ngoại trưởng Việt Nam nhiều lần sang Hoa kỳ, ban đầu thì còn lên giá, làm cao, tuyên bố: « Hoa kỳ muốn tái lập bang giao với Việt nam thì phải bồi thường chiến tranh. », sau đó xuống nước, không nói gì đến bồi thường chiến tranh, và tuyên bố: « Nếu Hoa kỳ muốn tái lập bang giao với Việt Nam, thì Việt nam sẵn sàng giành mọi ưu tiên cho Hoa kỳ, ngay cả việc Hoa kỳ muốn đặt tòa Đại sứ hay Tổng lãnh sự, ở đâu, Việt nam cũng đều đồng ý. »

Tuy nhiên giữa cán cân Trung cộng và Việt Nam, Hoa kỳ chọn Trung cộng chứ không chọn Việt Nam. Chúng ta phải nhớ là vào cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80, tình hình giữa Việt Nam và Trung cộng rất căng thẳng. Hoa kỳ muốn đi với Trung cộng để chỉa mũi dùi vào Liên sô, đánh sập Liên sô. Và cộng sản Việt nam lại là tay em trung thành của nước này.

Muốn đi theo Hoa kỳ không xong, cộng sản Việt nam quay sang tìm sự giúp đỡ của Pháp vào những năm 1988-1989, lúc này là lúc Tổng thống Pháp F. Mittérand vừa mới tái đắc cử. Tuy nhiên khả năng tài chính của Pháp hạn hẹp, thêm vào đó Pháp đòi hỏi phải dân chủ hóa chế độ, vì lúc này là lúc những phong trào dân chủ và những cuộc cách mạng dân chủ đã xẩy ra ở Đông Âu, nên việc không thành.

Việc Lê đức Thọ sang chữa bệnh ở Pháp năm 1988, vừa mang ý nghĩa chữa bệnh, vừa mang ý nghĩa chính trị.

Cộng sản Việt nam không còn con đường nào là hèn hạ, muối mặt, sang qụy lụy Trung cộng, mặc dầu trước đó đã lên tiếng chửi rủa Trung cộng không còn tiếng xấu nào mà không dùng, nào là «  Chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh «, «  Kẻ thù liền đất, liền trời « v.v…

Ai cũng biết người đứng sau nền chính trị Việt Nam và tất nhiên sau Hội nghị Thành đô là Lê đức Thọ, Phái đoàn Việt Nam gồm có Nguyễn văn Linh, đương kim Tổng bí thư, Đỗ Mười, đương kim Thủ tướng, Phạm văn Đồng, cựu Thủ tướng, cố vấn Phái đoàn. Phía bên Trung cộng, người đứng ngầm đằng sau là Đặng tiểu Bình, Phái đoàn gồm có Giang trặch Dân, đương kim Tổng bí thư, Lý Bằng, đương kim Thủ tướng.

Phía Việt Nam thì Lê đức Thọ bệnh nặng, chúng ta nên nhớ là Hội nghị Thành đô họp 2 ngày 3 và 4 tháng 9/1990, tất nhiên có những trao đổi trước đó cả tháng nếu không cả năm, thì chỉ hơn một tháng sau Lê đức Thọ chết vào ngày 13/10/1990.

Phía Việt nam nghĩ rằng có Phạm văn Đồng để cân xứng với Đặng tiểu Bình, nhưng đã lầm. Họ Phạm chỉ là một con người thừa hành, không có nhìn xa trông rộng, bằng chứng là đã ký công hàm bán nước năm 1958, thêm vào đó, đây là một con người cũng vô cùng hèn hạ, nhưng lại đạo đức giả và giỏi đóng kịch, giống như Hồ chí Minh, nên đã được người cộng sản khen ngợi rằng Phạm văn Đồng là học trò trung thành của Bác. Con người đạo đức giả này, sau khi họp Thành Đô về còn tỏ ra hối hận.

Về phía Trung cộng, chúng ta thấy Đặng tiểu Bình, một người lên voi xuống chó, ở chính trường quốc nội cũng như hải ngoại,  là một con chó sói già trước một đàn cừu non Việt Nam. Con người này chỉ dùng lý thuyết cộng sản như một phương tiện để phục vụ cứu cánh của mình là chủ nghĩa bành trướng đại Hán, «  Mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là nó bắt được chuột. » Trong khi đó thì cộng sản Việt nam vẫn « Đánh Mỹ để xây dựng xã hội chủ nghĩa «. Chính vì vậy mà ông Nixon đã nói: « Trung cộng chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng. »

Đó là sơ qua diễn tiến tình hình chính trị, trước khi đi đến hội nghị Thành đô 1990, về phía Việt Nam. Nhưng về phía Trung cộng thì như thế nào ?

I I I )  Tình hình Trung cộng trước Hội nghị Thành đô

 Người dân Hồng Kông tưởng niệm biến cố Thiên An Môn ở sân Victoria, tháng 4, 2020.

Tình hình Trung cộng gần kề nhất ngày Hội nghị Thành đô là biến cố Thiên An môn 1989. Đây là một biến cố lớn trong lịch sử cận đại của Trung cộng và của đảng Cộng sản Tàu.

Những cuộc biểu tình ở nhiều thành phố và nhất là ở Bắc kinh, tại quảng trường Thiên an môn, từ ngày 15/4 tới ngày 4/6/1989, đã huy động cả triệu người đủ mọi tầng lớp, từ nông dân, công nhân đến sinh viên học sinh, công chức và có cả quân đội, đòi tự do hóa chế độ, chống tham nhũng, cửa quyền, con ông cháu cha của đảng Cộng sản. Phe cải cách lúc đó tiêu biểu là Tổng bí thư Triệu tử Dương, phe bảo thủ tiêu biểu là Thủ tướng lý Bằng. Lập trường của Đặng tiểu Bình vào lúc đầu có vẻ ngả về phe cải cách, sau đó lừng khừng đứng giữa, cuối cùng đã ngả về phe bảo thủ, khi cuộc biểu tình đã không tự kiểm soát nổi, có những phần tử đã lợi dụng căng những biểu ngữ chống họ Đặng. Đấy là chưa nói hình ảnh sinh viên học sinh đã làm quá đà trong thời kỳ Cách mạng Hồng vệ Binh (1964 -1974), đưa bố mẹ, thầy cô ra đấu tố, đưa đến cảnh một người con trai của Đặng tiểu Bình, khi vệ binh đỏ đến phòng cư xá sinh viên, đã sợ quá, nhảy từ lầu cao xuống đất, gãy xương sống, suốt đời phải đi xe lăn; một biến cố nữa, đó là vợ chồng ông Chu ân Lai, đương kim Thủ tướng và vợ ông ta, bà Đặng vĩnh Siêu, một cán bộ lâu năm và rất ảnh hưởng trong Đảng cộng sản lúc bấy giờ, có một người con gái nuôi, dạy nhảy múa ở nhà hát Bắc kinh, bị đưa đi trại học tập, do chính sắc lệnh của Chu ân Lai, sau đó những người Vệ binh thân Mao, đã lấy một cái đinh dài đóng vào đầu cô ta, làm cho cô ta chết. Hình ảnh và hành động này ám ảnh không những bà Đặng vĩnh Siêu, Đặng tiểu Bình, mà phần lớn giới lãnh đạo Trung cộng lúc bấy giờ.

Vì vậy nên khi quyết định « Dẹp hay không dẹp biểu tình «, thì phe bảo thủ đã thắng. Đưa đến hậu quả làm cả ngàn người chết và cả chục ngàn người bị thương. Quyết định đàn áp biểu tình có nhiều người chống đối, trong đó có Tổng bí Thư Triệu tử Dương, Bộ trưởng quốc phòng, Tư lệnh quân đội Bắc kinh. Vì vậy nên phe bảo thủ phải gọi những đoàn quân ở phía tây bắc, từ những vùng Tây tạng, Tân cương v.v… về để dẹp biểu tình.

Biến cố Thiên an Môn suýt nữa làm cho nước Tàu nổ tung, ít ra làm 2. Trước đó thì cách mạng Hồng vệ binh đã đưa nước tàu vào cảnh nội chiến, có cơ bị chia  ra làm nhiều mảnh.

Từ xưa tới nay, giới báo chí, trí thức và ngay cả giới lãnh đạo tây phương có cái nhìn sai lạc về Tàu.

Đầu thế kỷ thứ 19, thì Napoléon ví nước Tàu như một con hổ đang ngủ, nếu nó thức dậy sẽ làm rung chuyển thế giới. Vào những năm 70, một nhà chính trị, kiêm văn sĩ Pháp, ông Alain Peyrefitte, có viết quyển sách « Quand la Chine s’éveillera… « (1973),  ( Khi nước Tàu sẽ tỉnh dậy… ). Không nói đâu xa, ngay ngày hôm nay, thế giới Tây phương vẫn còn có những cái nhìn sai lầm về Tàu.

Trong khi đó, chính những người Tàu, ngay cả một số giới lãnh đạo, thì ngược lại. Ông Chu dung Cơ, cựu Thủ tướng Tàu, có nói: «  Nước Tàu là một anh khổng lồ, chân bằng đất xét. » Cũng một cựu Thủ tướng khác, ông Ôn gia Bảo, vào cuối năm 2012, giai đoạn chuyển quyền giữa Hồ cẩm Đào và Tập cận Bình, thì tuyên bố: «  Nước tàu đang đi vào nguy hiểm của thời kỳ Cách mạng Hồng vệ binh. » Sự đấm đá trong đảng, tranh quyền đoạt lợi hiện nay vẫn tiếp diễn.(1)

Tháng 7/2014, một cuộc nghiên cứu, được công bố bởi Hurun Report, về việc tìm hiểu hành vi và thái độ của những người giàu nhất Trung cộng, mà trong đó phần lớn là những gia đình thuộc con ông cháu cha của những người lãnh đạo cao nhất, cho ta thấy: hơn 60% những người được khảo sát thì đã ra nước ngoài hay đã nộp hồ sơ để ra nước ngoài; 85% thì nói họ đã gửi con, người thân thích đến những trường đại học ở ngoại quốc.( Ian Bremmer, «  China superpower or superbust, The National Interest Magazine, tháng 11 và 12/ 2013).

Một chính quyền, một quốc gia có thể ví như một cái cây, những người của chính quyền là những người ở dưới gốc cây, hưởng bóng mát của nó, nay tìm cách gửi tiền hay gửi con ra nước ngoài chẳng khác nào đào đất ở gốc cây đổ đi chỗ khác, thì cái cây sớm muộn cũng sẽ bị trốc gốc.

Trong chính trị, sự lầm lẫn về địch thủ, đối phương, ngay cả với bạn, rất nguy hiểm, dẫn đến những hậu quả to lớn khó lường. Tuy nhiên đối với giới lãnh đạo Tây phương, nó có quan trọng, nhưng không có tính cách sống còn, nguy hiểm chết người, hại cả một dân tộc như đối với giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

Có thể nói giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, bắt đầu từ Hồ chí Minh cho tới ngày nay, có một cái nhìn sai lầm về thế giới cộng sản, nhất là về Trung cộng.

Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên do:

Nguyên nhân sâu xa bắt nguồn ngay từ cuộc đời cá nhân của Hồ chí Minh. Sau khi rời Việt nam, đi làm bồi cho một chiếc tàu Pháp, sống lang bạt kỳ hồ, khổ sở ở New York, Luân đôn, rồi Paris, thiếu thốn khó khăn, được Đệ Tam quốc tế lượm về nuôi nấng, huấn luyện, được sung sướng. Tất nhiên họ Hồ về cá nhân thì coi tổ chức Đệ tam, nhưng thực tế là Liên sô, như « Cha mẹ «. Chúng ta thấy, trong thời gian họ Hồ bị tổ chức này thất sủng, vào những năm cuối thập niên 20, đầu 30, vì lúc đó có sự tranh quyền gay gắt giữa Staline và Trotski, mà trước đó họ Hồ làm việc cho Borodine, người thân Trotski, họ Hồ đã bị thất sủng, đã viết thư không biết bao nhiêu lần  cho Đệ Tam, xin từng miếng cơm đến tiền trả tiền hotel. Chúng ta có thể thấy những bức thư này dễ dàng trong Tuyển tập Hồ chí Minh, do chính đảng Cộng sản Việt nam xuất bản.

Rồi tình hình thế giới thay đổi, Phát xít  Moussolini xuất hiện ở Ý năm 1923, ở Đức năm 1933 với Hitler, Đệ tam quốc tế họp kỳ cuối cùng năm 1936, trước khi bị Staline giải tán, đã quyết định thay đổi chiến lược, từ « Đấu tranh giai cấp «  sang « Hợp tác giai cấp để chống Phát xít « , họ Hồ được dùng lại, và đã cùng phái đoàn cộng sản Tàu, trở về Tàu vào khoảng năm 1938 nhằm sửa sọan cướp chính quyền.

Sau khi cướp được chính quyền thì nay chạy sang Tàu lạy lục xin viện trợ, mai chạy sang Liên sô để xin giúp đỡ.

Ngày hôm nay Cộng sản Việt Nam tâng bốc họ Hồ, đưa ra « Tư tưởng Hồ chí Minh «, nhưng chính ông đã tuyên bố: « Tôi không có tư tưởng gì cả. Tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. Những con người này không bao giờ sai lầm. »

Một con người không có tư tưởng, mà vì hoàn cảnh cứ phải đi xin cầu viện, lúc trẻ thì cho bản thân, lúc lớn thì cho tổ chức, con người này bản chất đã trở thành qụy lụy ngoại bang. Bản chất này đã ăn sâu vào xương tủy của con cháu Hồ tức những lãnh đạo cộng sản Việt nam sau này. Lê Duẫn, người kế vị trực tiếp Hồ, thì thản nhiên tuyên bố :

«  Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên sô và Trung cộng.» không ngần ngại hy sinh từ thế hệ này đến thế  hệ  khác để phục vụ lý tưởng cộng sản, nhưng thực tế là phục vụ Nga, Tàu.

Con cháu của Hồ chí Minh và Lê Duẫn ngày hôm nay, sau Hội nghị Thành đô năm 1990, đã sẵn sàng chấp ngận khẩu hiệu « Bốn Tốt và Mười sáu Chữ vàng «, đưa ra bởi Giang trạch Dân, nhưng thực tế là dâng đất, nhượng biển, thần phục ngoại bang như cha anh cộng sản Hồ Lê trước đây.

Nguyên nhân gần, đó là thế giới cộng sản Đông Âu, trong đó có Liên sô, « thành trì cách mạng, chỗ tựa vững chắc » của cộng sản Việt Nam từ từ sụp đổ từng mảng một, mà người chứng kiến tận mắt đó là Nguyễn văn Linh, lúc đó là đương kim Tổng bí thư, Trưởng Phái đoàn của Việt nam tại Hội nghị Thành đô.

Từ tháng 9/1989, cả ngàn người Đức, bỏ Đông Đức sang xin tỵ nạn ở Tây Đức.Tháng 10/1989, Honnecker từ chức Chủ tịch đảng Cộng sản Đông Đức. Tháng 11/1989, bức tường Bá Linh, ngăn cách hai nước Đông và Tây Đức, hai thế giới cộng sản và tư bản, sụp đổ. Tiếp theo đó là Tổng bí thư Todor Zhivkov của đảng cộng sản Bulgarie, rồi Tổng bí thư Milos Jakes của đảng cộng sản Tiệp khắc cũng từ chức.

Tháng 12/1989, cuộc cách mạng dân chủ ở Roumanie bùng nổ, vợ chồng nhà độc tài cộng sản Ceausescu, bị hạ bệ, rồi bị tử hình.

Những tình hình đó đã ảnh hưởng và ám ảnh sâu đậm đến giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Đấy là chưa nói đến sự kiện là giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam đến Hội nghị Thành đô còn mang đầy « mặc cảm tội lỗi » với đàn anh Trung cộng, vì sau khi Trung cộng « dạy cho cộng sản Việt nam một bài học », như lời tuyên bố của Đặng tiểu Bình, sau khi viếng thăm Hoa kỳ vào năm 1979, chiến tranh Việt Trung vẫn tiếp diễn ở biên giới và ở ngoài khơi. Năm 1988, Trung cộng đánh Trường sa của Việt Nam, chiếm đảo Gạc ma, mà hiện nay Trung cộng đang thành lập một căn cứ quân sự với những phi đạo cho máy bay, và những cứ điểm để khai thác dầu hỏa, mà cộng sản Việt Nam cứ im thin thít.

 Chiến tranh 1979 giữa 2 nước cộng sản Tàu, Việt.

Chiến tranh tại biên giới Việt Hoa kéo dài đến tận 1987, 3 năm trước Hội nghị Thành đô. Theo một số quan sát viên, ngoài những sự đụng độ nhỏ, có 6 trận đánh lớn, vào tháng 7/1980; tháng 5/81; 4/83; 6/85; 12/86; 1/87.

Từ bản chất lệ thuộc ngoại bang, đến mặc cảm « tội lỗi « , cộng thêm với những cái nhìn « ếch ngồi đáy giếng « chỉ biết có Liên sô, nay thế giới Liên sô từ từ sụp đổ, Phái đoàn cộng sản Việt Nam dự hội nghị Thành đô với một tư thế kém cỏi, như những « con cừu non « , trước một phái đoàn, mà đứng đằng sau là Đặng tiểu Bình, một con cáo già, gian manh, xảo quyệt ở mức độ quốc tế, với một tham vọng và ý chí mãnh liệt bành trướng chủ nghĩa « Đại Hán ». Tất nhiên những con cừu non đó bị con cáo già ăn thịt là lẽ thường tình.

IV )  Diễn tiến của Hội nghị Thành đô ( Hình thức và nội dung)

Thực ra, về nội dung của văn bản Hiệp ước Hội nghị Thành đô, cho tới ngày hôm nay, một cách chính thức, chưa có ai rõ. Người ta chỉ phỏng đoán qua những việc làm của Cộng sản Tàu và Việt nam, từ ngày có Hội nghị này cho tới nay.

Chính thức và để có giá trị trên mặt công pháp quốc tế, thì bất cứ hiệp ước quốc tế nào, nhất là liên quan đến biên giới trên đất liền hay trên biển, giữa hai hay nhiều quốc gia, thì phải có sự trong sáng: có nghĩa là phải được công bố, phải có sự phê chuẩn của quốc hội hay sự chấp nhận của dân qua trưng cầu dân ý và bản hiệp ước đó phải gửi tới cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên hiệp quốc. Về Hiệp ước Thành đô cả Trung cộng và Cộng sản Việt nam không hành xử theo kiểu này, mà hành xử lén la, lén lút, có tính cách mờ ám  chứ không minh bạch, theo cách hành xử của những nước tự do, dân chủ.

Kinh nghiệm cho chúng ta thấy là Công Hàm của Phạm văn Đồng năm 1958. Về phía cộng sản Việt Nam thì dấu diếm dân, về phía Trung cộng thì lập lờ đánh lận con đen qua việc yêu cầu Việt nam tôn trọng quyền lãnh hải 12 hải lý, rồi công bố bản đồ của Trung cộng, trong đó có Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam.

Thực ra thì không riêng gì Trung cộng và Cộng sản Việt Nam hành động lén lút, dấu dân, mà có thể nói tất cả những chế độ cộng sản, từ chế độ đầu tiên do Lénine thành lập năm 1917.

Lénine, để có được chính quyền, không ngần ngại tuyên bố là sẵn sàng nhượng đất cho Đức, sau đó có cử Trotski đi ký Hiệp ước nhượng đất ở Brest – Listovk, năm 1918, với Đức. Hiệp ước này ít người được biết, trong khi đó dân thì mù tịt. Ngay cả việc Lénine giết toàn gia đình Hoàng gia Nga Nicolas 2, ngày hôm nay người ta cũng không tìm ra một sắc lệnh nào của Lénine, ngoài việc Lénine cử một tay em thân cận, ngày xưa là một chủ ngục và được Lénine thường nói với mọi người rằng đây« là người giỏi nhất trong những người chúng ta «, có nghĩa là dám giết người, dám thủ tiêu, xuống chỗ ở của gia đình hoàng gia, rồi một đêm nọ, cùng với mười mấy người có súng, kêu gia đình xuống một cái hầm, đọc một bản án và giết cả gia đình.

Hành động hận thù, lén lút giết người không gớm tay, đó là hành động của giới lãnh đạo cộng sản.

Lê đức Thọ của Việt Nam, thì tuyên bố: « Mài hận thù để làm bén nhọn đấu tranh. » Em của hắn, Mai chí Thọ, vào năm 1981, lúc này là thế giới cộng sản đã bắt đầu xuống dốc, thì trân tráo, vô liêm sỉ, tuyên bố trước một số trí thức miềm Nam phải « đi học tập cải tạo « :

«  Hồ chí Minh có thể là một kẻ độc ác; Nixon có thể là một người vĩ đại, người Mỹ có thể đã có chính nghĩa. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mỹ đã bị đánh bại, bởi vì chúng tôi đã thuyết phục được người dân rằng Hồ chí Minh là một người vĩ đại và Nixon là một kẻ giết người, người Mỹ là những kẻ xâm lược. Yếu tố then chốt đó là kiểm soát được người dân và quan điểm của họ. Chỉ có chủ nghĩa Marx – Lénine là làm được điều đó. Không ai trong các anh (chỉ những người trí thức miền nam bị đi học tập cải tạo) thấy sự kháng cự đối với chế độ của những người cộng sản, vì vậy đừng suy nghĩ về chuyện đó. Quên chuyện đó đi. » ( Mai chí Thọ – theo lời của Đoàn văn Toại, trong A Lament for Việt Nam – New York Times Magazine – 29/03/1981).

Chế độ Marx-Lénine mà Mai chí Thọ nói tới không gì hơn là cai trị dân bằng cái loa, cái còng và cái súng. Cái loa là bưng bít thông tin, che dấu sự thật, rồi dùng cái loa để nói dối dân. Cái còng và cái súng là dọa dân, nếu ai không theo tao thì bỏ tù, hay thủ tiêu.

Tuy nhiên cách cai trị đó đã quá lỗi thời. Thế giới cộng sản Đông Âu sụp đổ, một phần cũng vì lý do đó. Ngày hôm nay những chế độ cộng sản còn lại, với nền văn minh trí thức điện toán, thông tin dễ dàng với những internet, điện thoại cầm tay, đang trên đà sụp đỗ cũng là vì vậy.

Trở về Hội nghị Thành đô, vì không có bản Hiệp ước ký kết giữa 2 bên được công bố chính thức, nên người ta chỉ phỏng đoán dựa vào quyển Nhật ký của Trần quang Cơ, Thứ trưởng Bộ ngoại giao, lời tuyên bố của Nguyễn cơ Thạch, lúc đầu; sau đó là tài liệu của Weakileaks,  Hoàn cầu thời báo cùng một số báo chí khác.

Về Nhật ký của Trần quang Cơ, phần rõ ràng là phần nói về vụ giải quyết tình hình Cam bốt: Cộng sản Việt Nam rút quân khỏi nước này, thành lập Hội đồng Hòa giải dân tộc dưới sự lãnh đạo của ông cựu hoàng Sihanouk. Chính ở điểm này, Trung cộng có nhượng bộ. Đó là Trung cộng đòi phải sự có mặt của phe Polpot, nhưng kết cục thì không có. Trần quang Cơ có nói đến những buổi thương thuyết trước Hội nghị, có nói đến phía Việt Nam đề nghị phía Trung cộng đứng ra lãnh đạo khối cộng sản còn lại, nhưng không nói rõ đề nghị này là thế nào. Có phải để Trung cộng lãnh đạo rồi Việt Nam nhận làm một tỉnh của Trung cộng không ? Điều này không thấy trong nhật ký. Người ta chỉ thấy trong một vài tờ báo nói rằng đó là tiết lộ trong 3 100 bức điện thư lưu trữ ở Bộ Ngoại giao Hoa kỳ. Vấn đề kiểm chứng thật khó khăn, ngay với cả một số người thông thạo tin tức.

Trong khi đó thì Nguyễn cơ Thạch, cấp trên, là Bộ trưởng Ngoại giao, không viết nhật ký, không được dự Hội nghị Thành đô, vì Trung cộng không muốn, lại tuyên bố: « Hội nghị Thành đô bắt đầu một thời kỳ Bắc thuộc nguy hiểm và lâu dài. »

Có người cho rằng để biết nội dung của bản Hiệp ước Thành đô thì chúng ta chỉ cần xét đến hình thức và hậu quả của nó.

Thực vậy, nếu nói về hình thức thì đây là một hội nghị quốc tế vô cùng nhục nhã đối với Cộng sản Việt nam. Theo thông lệ, một hội nghị ở mức độ cao như vậy thì phải họp ở thủ đô, nay lại họp ở một thủ phủ một tỉnh bậc trung là Tứ xuyên. Họp 2 ngày mồng 3 và mồng 4 tháng 9, Phái đoàn Việt Nam phải có mặt trước ngày mồng 2 tại Thành đô, đúng vào ngày Quốc khánh cộng sản Việt nam. Ép cộng sản Việt nam làm điều này, Trung cộng muốn nói là Trung cộng không coi Việt nam là một nước độc lập. Thêm vào đó, phái đoàn Việt Nam phải đi đường bộ để sang họp. Đặng tiểu Bình dụ để phía Việt Nam chấp nhận họp, đã hứa xuống gặp phái đoàn, nhưng sau đó không xuống gặp và còn tuyên bố khinh bỉ Cộng sản Việt nam: «  Tôi không thèm gặp những phường ăn cháo, đái bát. »

Ngày xưa Mặc đăng Dung, Lê chiêu Thống qụy lụy Tàu để giữ ngôi báu, nhưng cũng không đến nỗi hèn mạt như vậy.

Những hành động của cộng sản Việt Nam sau Hội nghị Thành đô :

Mặc dầu người ta không biết chính thức nội dung của Hiệp ước Thành Đô, vì cả 2 bên Trung cộng và Cộng sản Việt nam không công bố chính thức nội dung của hiệp ước này. Nhưng những hành động của Cộng sản Việt nam từ ngày có Hội nghị tới nay quả là hành động bán nước. Bởi lẽ đó có người cho rằng nội dung của Hiệp ước là bán nước cũng không phải là không có lý.

Thật vậy, từ ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tới nay, những hành động của Cộng sản Việt nam chứng tỏ càng ngày càng đưa Việt nam vào vòng kiềm tỏa, lệ thuộc Trung cộng về kinh tế, chính trị quốc nội và hải ngoại. Người ta còn nhớ, sau Hội nghị không lâu, Giang trạch Dân đến viếng thăm Việt nam, không đến Hà nội, thủ đô, mà tới Đà nẵng tắm biển, rồi gọi giới lãnh đạo Cộng sản Việt nam tới « chầủ «,  kiểu như ngày xưa chầu Thiên hoàng.

Năm 1997, Cộng sản Việt nam muốn gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế, nhưng Trung cộng không muốn, nên phải từ chối.

Hai Hiệp định năm 1999, về vấn đề biên giới và năm 2 000 về lãnh hải, mà cộng sản đã ký với Trung cộng, dâng cho Trung cộng cả ngàn cây số vuông về lãnh thổ trong đó có thác Bản dốc và Ải Nam quan, cùng cả 20 000 cây số vuông về lãnh hải.

Tiếp theo đó là những hiệp ước nhượng cho Trung cộng khai thác bô xít ở vùng cao nguyên Trung phần, xương sống chiến lược của Việt nam, rồi nhượng những vùng rừng ở biên giới cùng cho phép Trung cộng lập những khu tự trị ở Việt Nam.

Gần đây Trung cộng đặt giàn khoan dầu HD 981 ở trong thềm lục địa Việt nam, cả thế giới trông đợi phản ứng mạnh mẽ của giới lãnh đạo cộng sản Việt nam, nhưng ngoài một vài lời tuyên bố cứng rắn, sau đó đâu lại hoàn đấy, đó là Cộng sản Hà nội vẫn tiếp tục quỵ lụy Trung cộng, làm cho cả thế giới thất vọng.

Đó là về chính trị, còn về kinh tế thì ngay dù người dân bình thường cũng nhìn thấy rõ là nền kinh tế Việt nam hiện nay hoàn toàn lệ thuộc Trung cộng. Việt nam chỉ là một cửa tiệm để Trung cộng thuồn những hàng ô nhiễm, mang độc hại, những hàng giả, bị tẩy chay, sang mang nhãn hiệu Việt Nam để bán trên thế giới.

Nhìn lại quá khứ, suy xét hiện tại, để chẩn đoán tương lai :

Trong những chế độ cộng sản, những giới lãnh đạo cộng sản, không có một chế độ nào, giới lãnh đạo nào mà lại ngây thơ, ngu muội, nhưng lại nghĩ mình là « Đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ « như cộng sản Việt nam. Ngày xưa thì Hồ chí Minh tuyên bố: « Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. »

Lê Duẫn thì nói: « Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên sô và Trung cộng.» Ngày nay, sự ngây thơ và ngu muội đó được biểu hiện qua Hội nghị Thành đô.

Thực ra sự ngây thơ và ngu muội không phải chỉ ở giới lãnh đạo mà ngay ở một số trí thức cộng sản. Đã từ lâu cộng sản Liên sô và Trung cộng đã dùng chủ nghĩa cộng sản như một phương tiện cho mộng xâm chiếm, bành trướng của mình, trong khi đó, giới trí thức cộng sản Việt nam vẫn nghĩ:« Bên ni biên giới là mình Bên kia biên giới cũng tình quê hương …»

Ngày hôm nay, có người cho rằng một số trẻ Việt Nam mất định hướng, vọng ngoại, đến nỗi “ Lên sân khấu để hôn cái ghế ngồi của một tài tử Nam Hàn.” Nhưng họ quên ngày xưa có một số trí thức cộng sản làm những bài thơ ca tụng Lénine, Staline: “ Hôn cho anh nền tảng đá công trường, nơi vĩ đại Lénine thường dạo bước “, hay: “Ôi ông Staline, ông mất, đất trời biết không. Thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một, thương ông, thương mười.”

Ngày xưa “ hôn chân Lénine, Staline”, ngày hôm nay một số giới trè “ hôn đít “ một tài tử ngoại quốc, ngẫm đi ngẫm lại, mặc dầu là 2 hành động khác nhau, nhưng mang cùng một bản chất.

Hiện nay, nhiều người bàn tán về đề tài “ Thoát Trung “, nhưng họ quên rằng điều kiện đầu tiên, ắt có và đủ, để “Thoát Trung”, đó là “ Thoát cộng”.

Ngày nào còn chế độ cộng sản, miệng thì hô hào yêu nước, nhưng trên thực tế thì bán nước. Ngày đó không thể thoát Trung, mà trên thực tế là càng ngày càng bị lún xâu vào vòng kiềm tỏa của Trung cộng.

Ngày nào còn đảng cộng sản độc quyền “ yêu nước “, độc quyền cai trị dân, không cho dân cất tiếng nói, miệng thì hô hào xã hội chủ nghĩa, công bằng xã hội, nhưng trên thực tế là cướp nhà cửa, ruộng vườn, tài sản của dân, để trao vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ, làm cho xã hội trở nên vô cùng bất công, ngày đó những hành động như Hội nghị Thành đô còn tái diễn, không những không thể thoát Trung, mà dân Việt còn không thể ngóc đầu lên được, để phát triển, để theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.

Paris ngày 09/10/2014

Chu chi Nam và Vũ văn Lâm

(1)            Xin xem thêm những bài về nước Tàu và Tập cận Bình, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

Links:https://chuchinam.pagesperso-orange.fr/C/bai%20viet%20CACH%20MANG/VE%20HOI%20NGHI%20THANH%20DO%20(ds).htm


“Không ai ngăn nổi lời ca”- Vương Trí Nhàn

Bài đọc suy gẫm: “Không ai ngăn nổi lời ca” hay “Một cách nhìn về sự xâm nhập lẫn nhau giữa âm nhạc hai miền từ sau 1975” . Tác giả Vương Trí Nhàn. Hình ảnh chỉ là minh họa.

 

 

 

Quán nửa khuya đèn mờ theo hơi khói…

Câu hát đầu trong bài “Quán nửa khuya” của Tuấn Khanh & Hoài Linh, sáng tác năm 1961.

Đuốc lồ ô bập bùng bên ánh lửa…

Câu hát đầu trong bài “Tiếng chày trên sóc Bom-Bo” của Xuân Hồng, ra đời năm 1966.

Người nghe nhạc tinh ý dễ nhận ra hai câu nhạc giống nhau trong hai bài nhạc cùng hợp âm Mi thứ. Nếu có khác, bài “Quán nửa khuya” ghi thể điệu Boléro, bài “Tiếng chày trên sóc Bom-Bo” ghi “Nhịp nhàng, rộn rã”.

Nhạc sĩ Tuấn Khanh, khi nhắc đến sự giống nhau của hai câu nhạc này, chỉ mỉm cười, lắc lắc đầu. Cái lắc lắc đầu, mỉm cười đầy ý nghĩa của ông cũng cho thấy, “nhạc đỏ” miền Bắc có khuynh hướng theo chân “nhạc vàng” miền Nam từ nhiều năm trước chứ không phải đợi tới bây giờ.

Nhạc đỏ, buồn ơi chào mi!

Cũng không phải đợi tới bây giờ mà nhiều người yêu nhạc ở miền Bắc đã biết yêu, biết tìm đến “nhạc vàng” miền Nam từ lâu lắm. Lộc “vàng”, chàng trai Hà Nội thời chiến vì trót yêu nhạc vàng, thích hát nhạc vàng mà phải trả giá đến gần 10 năm tù tội. Điều khá chua xót là, ngày ra tù, trong lúc lang thang trên đường phố, tiếng nhạc vọng ra từ những quán xá bên đường mà anh nghe được lại chính là những bản nhạc vàng “đồi trụy”, “phản động” đã đọa đầy anh trong lao tù, chôn vùi cả một thời tuổi trẻ. Câu chuyện Lộc “vàng” là câu chuyện của người dám sống và chết cho nhạc vàng, nhất định chỉ yêu nhạc vàng chứ không yêu nhạc đỏ.

“Nhạc vàng”, cái “từ” này ở đâu ra và có nghĩa gì? Trước năm 1975, nhạc Việt ở miền Nam không có màu mè xanh, đỏ, tím, vàng chi cả. Danh từ “nhạc vàng” cũng ít được sử dụng. Nhiều lắm chỉ có ban nhạc tên Nhạc Vàng của Đài truyền hình Sài Gòn (nhạc sĩ Phó Quốc Lân phụ trách) hoặc ít băng, dĩa nhạc ghi “băng vàng”, “nhạc vàng” mang ý nghĩa là những bài nhạc hay, chọn lọc về tình yêu quê hương, lứa đôi…, thường là nhạc điệu êm dịu, trữ tình.
Trong khi đó, miền Bắc gọi chung nhạc Việt miền Nam là “nhạc vàng”, theo nghĩa vàng vọt, vàng võ, bệnh hoạn và được dán nhãn chính trị là nhạc “đồi trụy”, “phản động”.

“Nhạc đỏ” của miền Bắc chính thức xâm nhập miền Nam Việt Nam kể từ 30 tháng Tư năm 1975. Đâu đâu cũng trông thấy cờ xí ngờm ngợp và những biểu ngữ đỏ chói giăng đầy đường phố, đâu đâu cũng nghe thấy vang vang, rầm rập những bài hát “cách mạng” nhịp quân hành, trong lúc loa phóng thanh liên tục mở hết cỡ phát đi những khẩu hiệu ròn rã về “chiến công vĩ đại”, về “cuộc kháng chiến thần thánh”, về “đỉnh cao chói lọi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc”…

Những năm sau đó, nhạc đỏ vẫn liên tục tra tấn đôi tai người dân tội tình từ những chiếc loa phường treo máng trên những cột điện dây nhợ chằng chịt. Vẫn là điệu nhạc rất “đặc trưng”, nếu không rầm rập như bị ma đuổi thì cũng ồm ồm hay riu ríu, lơ lớ tiếng Việt, thoạt mới nghe tưởng nhạc cách mạng… Tàu, đại để “Cô gái vót chông”, “Cô gái mở đường”, “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn”, “Chào em cô gái Lam Hồng”, “Rừng xanh vang tiếng Ta Lư”, “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó”, “Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn”, “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát”, “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”…

Hát mãi, nghe mãi kiểu nhạc này thì cũng… chán, những tay chơi nhạc trong “phong trào văn nghệ quần chúng” bèn ngồi lại, bàn bạc và lập ra những nhóm đàn hát ở các phường, xã, xí nghiệp, công trường… gọi tên là “Nhóm ca khúc chính trị” theo mô hình phổ biến của các nhóm nhạc nhẹ ở Liên Xô và Đông Âu.
Các tiết mục, bài bản thường là tự sáng tác, tự trình diễn, gọi là “tự biên, tự diễn”. Có thể kể ra ít “Nhóm ca khúc chính trị” quen tên như nhóm nữ Xí nghiệp Dệt số 8, Mây Trắng, Nắng Hồng, Rạng Đông, Đại Dương, Hải Âu, Bách Việt, Phù Sa, Dây Leo Xanh… và một số ca khúc được quần chúng đón nhận, yêu thích vào thời ấy như “Những lời em hát” (Từ Huy), “Tuổi trẻ và ước vọng” (Vy Nhật Tảo), “Đi qua vùng cỏ non” (Trần Long Ẩn), “Ơi cuộc sống mến thương” (Nguyễn Ngọc Thiện), “Em như tia nắng mặt trời” (Nguyễn Đức Trung)…

Các “nhóm ca khúc chính trị” của thập niên 1980’s ấy là gạch nối dẫn đến sự nở rộ của các “tụ điểm ca nhạc” thu hút lượng người xem ngày càng đông. Có thể kể tên những tụ điểm quen thuộc ở Sài Gòn như sân khấu 126, Lan Anh, Trống Đồng, Đầm Sen, nhà hát Thành Phố, nhà hát Hòa Bình…

Từ các tụ điểm này, nhiều ca khúc dễ nghe và có giai điệu rất gần với “nhạc vàng” của miền Nam lần lượt ra đời, như “Ngõ vắng xôn xao” (Trần Quang Huy), “Nha Trang mùa thu lại về” (Văn Ký), “Hoa sữa” (Hồng Đăng), “Một đời người, một rừng cây” (Trần Long Ẩn), “Em ơi, Hà Nội phố” (Phú Quang), “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” (Trương Quý Hải & Bùi Thanh Tuấn)… Ngay đến cách đặt tựa bài hát cũng mang phong cách “nhạc vàng”, như “Đêm thành phố đầy sao” (Trần Long Ẩn), “Con đường có lá me bay” (Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền), “Lời tỏ tình của mùa xuân”, “Này người yêu nhỏ xinh” (Nguyễn Ngọc Thiện), “Thơ tình cuối mùa thu” (Phan Huỳnh Điểu & Xuân Quỳnh), “Ở hai đầu nỗi nhớ” (Phan Huỳnh Điểu & Trần Đình Chính) , “Thành phố, tình yêu và nỗi nhớ (Phạm Minh Tuấn & Nguyễn Nhật Ánh), “Giọt nắng bên thềm” (Thanh Tùng)…, với điệu nhạc lời ca tình tứ, lãng mạn về tình yêu lứa đôi, được kể là “hàng hiếm” thời bấy giờ.

 

Con đường có lá me bay
Chiều chiều ta lại cầm tay nhau về…

(“Con đường có lá me bay”, Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền)

Cũng hàng me hàng phượng, cũng tay nắm lấy bàn tay.

Những ngày không gặp nhau
biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
lòng thuyền đau rạn vỡ

Nếu từ giã thuyền rồi
biển chỉ còn sóng vỗ
Nếu phải cách xa em
anh chỉ còn bão tố…

(“Thuyền và biển”, Phan Huỳnh Điểu & Xuân Quỳnh)

Cũng biển tình và thuyền tình, cũng cách chia và nhung nhớ.

Khi thấy buồn em cứ đến chơi
Chim vẫn hót sau vườn đấy thôi
Chỉ có trong tôi, ngày đã sang đêm lâu rồi…

(“Giọt nắng bên thềm”, Thanh Tùng)

Nhiều nhạc sĩ của dòng “nhạc cách mạng” bắt đầu chuyển hướng sáng tác để dọn ra những món ăn tinh thần đáp ứng khẩu vị người yêu nhạc trong thời kỳ “đổi mới”. Một dòng nhạc mới, nếu không hẳn là nhạc vàng thì cũng… vàng vàng, róc rách chảy vào sinh hoạt ca nhạc ở trong nước từ lúc nào.
 

Nhạc vàng, thời hoàng kim của Boléro

Trên sân khấu các tụ điểm văn nghệ thời ấy cũng có sự góp mặt của các ca sĩ miền Nam, luôn là những giọng hát ăn khách, thu hút lượng khán giả đông đảo, như Duy Khánh hát “Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh), Nhật Trường hát “Hương thầm” (Vũ Hoàng & Phan Thị Thanh Nhàn), Anh Khoa hát “Trị An âm vang mùa xuân” (Tôn Thất Lập)… Người ta cũng nghe được qua các băng, dĩa nhạc, qua đài phát thanh, phát hình các giọng hát quen thuộc của những ca sĩ còn ở lại trong nước, như Lệ Thu hát “Hà Nội niềm tin và hy vọng” (Phan Nhân), Thanh Lan hát “Đi qua vùng cỏ non” (Trần Long Ẩn), Lan Ngọc hát “Con đường có lá me bay” (Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền), Họa Mi hát “Quảng Bình quê ta ơi!” (Hoàng Vân)… Thường thì các ca sĩ này chọn hát những bài có nội dung “vô thưởng vô phạt” và nhạc điệu gần gần với nhạc miền Nam.

Cứ thế, cùng với những lần xét duyệt nhỏ giọt cho phép phổ biến những bài nhạc của miền Nam trước năm 1975, nhạc vàng lần lần đi vào sinh hoạt ca nhạc trong cả nước, lần lần đẩy lùi nhạc đỏ ra khỏi các sân khấu trình diễn. Nhạc đỏ, nếu không biến mất thì cũng mờ nhạt, họa hoằn lắm được các “nghệ sĩ nhân dân ưu tú” biểu diễn để chào mừng các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử của nhà nước cộng sản Việt Nam.

Nhạc vàng, đến một lúc nào đó, không đợi nhà nước cho phép, trình diễn “vô tư” và tràn lan trên các sân khấu ca nhạc ở cả hai miền Nam Bắc.

Những cố gắng để cấm đoán, ngăn chận sự xâm nhập của nhạc vàng miền Nam chỉ là những cố gắng vô ích và tuyệt vọng. Lạ một điều, bài nhạc nào càng bị cấm đoán thì càng được người yêu nhạc tìm đến.

Không ngạc nhiên chút nào, lần đầu tiên kể từ ngày “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, nhà nước cộng sản đã ra nghị định chính thức “bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975”. Nghị định này ban hành vào tháng 1/2019 và được Cục Nghệ thuật Biểu diễn giải thích như sau:

“Bỏ cấp phép cho ca khúc nghĩa là ca khúc sáng tác ở thời gian, không gian nào cũng bình đẳng như nhau, không có khoanh vùng đặc biệt để cấp phép. Trước hay sau 1975 đều như nhau.”

Lời giải thích có vẻ tử tế và “hợp tình hợp lý” này (tiếc rằng chỉ đến sau 44 năm) chỉ như hợp thức hóa một sự đã rồi.

Những lời “tử tế” ấy không khỏi làm người ta nhớ, Cục Nghệ thuật Biểu diễn này từng loay hoay để đưa ra lời giải thích “hợp tình hợp lý” rằng “người binh sĩ lên đàng” trong bài nhạc xuân “Ly rượu mừng” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là… người lính chống Pháp, nhằm biện minh việc cấp phép cho ca khúc này sau hơn 40 năm bị “cấm cửa”.

Sự cấp phép cho “Ly rượu mừng”, cho nhiều bài của Phạm Duy và của các nhạc sĩ tên tuổi miền Nam càng cho người trong nước có thêm cơ hội làm quen và thêm yêu mến dòng “nhạc vàng” từng bị nhà nước lên án, cấm đoán trong suốt bao nhiêu năm.

Nghị định mở rộng cửa chào đón âm nhạc miền Nam trước năm 1975, cùng với sự tán thưởng nồng nhiệt của giới yêu nhạc trong nước dành cho các ca sĩ tên tuổi miền Nam từ hải ngoại về nước trình diễn, đánh dấu sự ra đi không hẹn ngày về của dòng “nhạc cách mạng” hay “nhạc đỏ”, cho dù có là… “nhạc đỏ trữ tình”.

 

Đến đây không thể không nói tới sự lên ngôi của “dòng nhạc trữ tình Boléro”, nổi lên như một hiện tượng lạ, tạo cơn lốc cuồng nhiệt, thống lĩnh mọi sinh hoạt văn hóa văn nghệ trong nước. Những bài hát thể điệu boléro xập xình, tiết tấu chậm rãi, nhịp điệu rỉ rả, giai điệu luyến láy, mùi mẫn nỉ non, đi cùng lời ca dễ hiểu, dễ hát, dễ nghe lại dễ đệm đàn với nhạc cụ thông dụng là chiếc guitar thùng.

Nhạc boléro, vốn được xem là thể loại nhạc bình dân, đại chúng ở miền Nam, như thế có đến hai đời sống, cách nhau đến gần nửa thế kỷ. Đời sống sau, tuy là tái sinh nhưng lại sống hùng sống mạnh hơn vì được phổ biến tràn lan trong cả nước chứ không chỉ giới hạn trong phạm vi miền Nam như thời kỳ trước năm 1975.

Nhạc boléro miền Nam đã hoàn toàn chinh phục trái tim đồng bào miền Bắc kể từ khi được làm quen với thể điệu nhạc ấy, với lời ca tiếng hát ấy, như một món ăn ngon, hấp dẫn và hợp khẩu vị sau nhiều năm phải nhai nuốt những món khó tiêu và ngán đến tận cổ.

Nhiều bài bản boléro mà người miền Nam xếp vào dòng nhạc hoài niệm thì nay được người miền Bắc và cả nước “phấn khởi hồ hởi” vực dậy, nâng niu, đắm đuối, gọi là “nhạc vàng boléro”, “tuyệt phẩm boléro”, “siêu phẩm bolero”. Nhạc boléro đã chính thức lên ngôi, đạt ngôi vị cao nhất trong mọi thể loại nhạc Việt. Nhiều ca sĩ “chuyên trị” boléro được ngưỡng mộ, tôn vinh và phong tặng những danh hiệu nổi đình nổi đám như “Nữ hoàng boléro” (những Lệ Quyên, Bảo Yến, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hương Lan…), “Ông hoàng boléro” (những Chế Linh, Tuấn Vũ, Ngọc Sơn…), “Thánh nữ boléro” (Jang Mi, Kim Tuyến), “Ngọc nữ boléro” (Phương Anh), “Thiên thần boléro” (Quỳnh Trang), chưa kể những “Hoàng tử boléro”, “Công chúa boléro” và cả “Thần đồng boléro” nữa. Những thần tượng boléro này đã mê hoặc, hớp hồn không biết bao nhiêu… tín đồ boléro.

“Đó là một loại âm nhạc có đẳng cấp,” ca sĩ Ánh Tuyết ở trong nước khẳng định khi nói về những tình khúc boléro. Cô nói thêm, “Âm nhạc không có chuyện sang, sến mà chỉ có hay hoặc dở.”

“Ông hoàng boléro” Chế Linh tiếp lời, “Nếu âm nhạc là lời nói cất lên từ trái tim thì Boléro chính là tiếng nói tình cảm nhất. Nó chan chứa, không bóng bẩy, đi thẳng vào lòng người nghe.”

Chung cuộc, nhạc vàng của người miền Nam với đỉnh cao là thời hoàng kim của Boléro, đã giải phóng người dân miền Bắc thoát khỏi sự thống trị của nhạc đỏ trong mọi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ để giành quyền tự do suy nghĩ, tự do bày tỏ cảm xúc, bộc lộ tâm tư tình cảm. Điều này thực sự có ý nghĩa, vì đấy chính là quyền tự do tư tưởng, là một trong những quyền tự do căn bản nhất của con người.

Câu chuyện Lộc “vàng” chua xót ấy sau cùng cũng có được một kết thúc có hậu. Ngày anh bước chân ra tù vẫn có vòng tay mỏi mòn chờ đợi của người con gái yêu anh, yêu những bài nhạc vàng anh hát, để cùng anh nối lại giấc mơ chưa tròn. Bây giờ anh là chủ quán Café nhạc mang tên anh, Lộc Vàng, ven bờ Hồ Tây. Quán nhỏ nhưng ấm cúng, đủ cho khách yêu văn nghệ, cho bè bạn yêu nhạc vàng và cho cả anh chủ quán Lộc “vàng” ung dung bước lên sân khấu nhỏ, cất tiếng hát những bài tình ca năm xưa đã đưa anh vào vòng lao lý, đã đưa người bạn thiết của anh đến cái chết trong cô quạnh.

Anh mong chờ mùa thu
Tà áo xanh nào về với giấc mơ…

Chỉ là “mùa thu”, là “tà áo xanh”, là “giấc mơ” thôi, vậy mà cũng làm anh phải trả giá đến hết một thời tuổi trẻ trong chốn lao tù.

 

Nghệ sĩ Lộc “vàng” và quán Cafe Lộc Vàng tại 46 An Dương – Yên Phụ – Hà Nội.

 

Sau cùng thì Lộc “vàng” vẫn đứng đó hát. Như những văn hóa phẩm miền Nam có bị thiêu đốt nhưng vẫn không cháy được, những bài nhạc vàng ấy có bị giam nhốt nhưng vẫn không vùi dập được. “Không ai ngăn nổi lời ca”, như tên một bài hát quen thuộc trong các phong trào “sinh viên tranh đấu” ở miền Nam ngày trước.

Nói như nhà văn, nhà đạo diễn điện ảnh Trần Văn Thủy trong tập tạp bút Trong Đống Tro Tàn, “Trong thời đại thông tin bùng nổ, toàn cầu hóa này, mọi cấm đoán, kiểm duyệt thô bạo với văn học nghệ thuật là một chuyện rất dại dột, là chuyện ‘Vác gậy ông đập lưng ông’ mà thôi.”

“Gậy ông đập lưng ông”, thật không gì rõ hơn, khi mà người yêu nhạc trong nước đi từ dửng dưng đến lạnh lùng quay lưng với nhạc đỏ để tìm đến với tình yêu nhạc vàng.

Nếu quả “Âm nhạc có thể làm thay đổi thế giới vì nó thay đổi được con người” (Music can change the world because it can change people. ~ Bono) thì chúng ta có lý do để tin rằng, sự thay đổi về khuynh hướng và quan niệm thẩm mỹ trong âm nhạc, nghệ thuật của người Việt trong nước sẽ tác động không ít đến những đổi thay về văn hóa, xã hội, chính trị cho đất nước mình. Sự thắng thế của nhạc vàng miền Nam là “hoàn toàn không thể đảo ngược” và là “xu thế tất yếu của thời đại”, như cách nói quen thuộc của nhà nước cộng sản.

Không còn nghi ngờ gì nữa, trong cuộc đọ sức với nhạc đỏ miền Bắc, nhạc vàng miền Nam đã là “Bên thắng cuộc”.

© Vương Trí Nhàn

 

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

 

Links:

 https://www.vanews.org/2020/05/mot-cach-nhin-ve-su-xam-nhap-lan-nhau.html

 http://xuandienhannom.blogspot.com/2018/04/toi-nay-khai-truong-ca-phe-loc-vang-tai.html


Không phải ngẫu nhiên – Lê Vĩnh Huy

Ảnh internet: Phố người Hoa kiều ở Chợ Lớn.

Bài đọc suy gẫm:  Không phải ngẫu nhiên hay là “Cách nền Đệ Nhất Cộng Hòa đối phó vấn đề các “tiểu quốc” Hoa kiều ở Chợ Lớn”. Bài viết rất hay của tác giả  Lê Vĩnh Huy. Hình ảnh trên thêm blog 16 chỉ là minh họa.

 
 Cách nền Đệ Nhất Cộng Hòa đối phó vấn đề các “tiểu quốc” Hoa kiều ở Chợ Lớn
 
 
Không phải ngẫu nhiên mà Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn và cũng không phải ngẫu nhiên mà tỉnh Chợ Lớn – nơi đa số cư dân là người Hoa – biến mất sau Sắc lệnh 143/VN của Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm ngày 22-10-1956. Khoảng 2 tháng trước đó, nền Đệ Nhất Cộng hòa đã quyết định phải xử lý một cách triệt để vấn đề các bang hội tự trị – các “tiểu quốc” Hoa kiều ở Chợ Lớn…
 
A. Sơ lược bối cảnh lịch sử di dân Tàu ở Việt Nam
 
Đất Giao Chỉ xưa từng có lúc thuộc Tàu, nên đã ngàn năm nay, việc người Tàu sang đây sinh sống là chuyện thường tình. Trước đó thi thoảng cũng có những nhóm người Hoa di dân tới đây vì sự “Thay triều đổi đại”.Nhưng di dân Tàu ồ ạt thành đoàn thành lũ xuống phương Nam là bắt đầu từ giữa thế kỷ XVII. Họ là những kẻ bất phục Mãn Thanh, tìm sang Nam để gìn giữ nề nếp phong tục người Hán. Họ tập hợp nhau lập thành làng, gọi làng Minh Hương (làng của người Minh). Để phân biệt, ta hiểu “người Minh Hương” là những di dân chính trị. Từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX, ta có những “Hoa kiều”, đó là những di dân kinh tế.
 
Cách nền Đệ Nhất Cộng hòa xử lý vấn đề tiểu quốc Hoa kiều ở Chợ Lớn
 
Không có dân tộc nào tôn thờ chữ viết như người Tàu. Nghệ thuật viết chữ được luyện thành thư pháp, như một tôn giáo để di dưỡng tâm hồn. Văn tự thành chiếc cầu nối giữa người phàm với thần linh. Lưu lạc đến bất cứ đâu, việc họ bắt tay thực hiện đầu tiên là lập hội quán, để tập hợp thành cộng đồng tương trợ nhau; kế đó là xây dựng trường học, để bảo tồn chữ Hán.
 
Thời Hậu Lê, người Tàu đã được hưởng quy chế ngoại kiều. Người Việt vốn chuộng hư danh phù phiếm, xem thường việc kinh thương, lại thường xảy ra nội chiến, nên ngay từ Trịnh – Nguyễn phân tranh, người Tàu đã nắm trọn độc quyền khai thác khoáng sản, buôn bán gạo muối và kinh doanh vận tải; giang sơn Đại Việt chia đôi chẳng ngăn được người Tàu ở hai Đàng (Trong và Ngoài) hiệp lực với nhau, chi phối và thao túng toàn bộ kinh tế Đại Việt. Người Tàu chí thú làm ăn, cung cấp lương thực và hàng hóa cho hai phe đồng chủng Tiên Rồng đánh giết nhau, và họ trở nên giàu có, một phần do cái tật của người Việt.
 
Sau này, sự giàu có của người Tàu được nhà Tây Sơn ghé mắt xanh, đưa vào diện quan tâm đặc biệt. Những cuộc chém giết để cướp của của người Tàu được nhà Tây Sơn tổ chức quy mô: San bằng Cù Lao Phố Đồng Nai, hủy diệt Mỹ Tho, tàn sát Chợ Lớn. Người Tàu bị đẩy vào thế phải đâu lưng cùng Nguyễn Ánh để chung sức tiêu diệt nhà Tây Sơn.
 
Chính vì thế, khi lên ngôi, vua Gia Long đã dành cho Hoa kiều những đặc ân lớn: nhẹ thuế khóa, miễn lao dịch và không phải đóng thuế thân. Vua lại cho phép họ thành lập bảy đại bang theo phương ngữ, được quyền tự trị, là Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu, Quế Châu, Lôi Châu và Hải Nàm. Từ sau đời Minh Mạng, tuy cũng có lúc Hoa kiều bị siết chặt, ngăn ngừa họ phóng túng vô cương, nhưng Hoa kiều vẫn luôn là cộng đồng được ưu ái nhất ở Việt Nam. Đến khi người Pháp vào cai trị, những quy chế ưu đãi của Nguyễn triều dành cho Hoa kiều được duy trì hầu như không đổi, thế lực Hoa kiều cứ thế ngày một lớn mạnh.
 
Cách nền Đệ Nhất Cộng hòa xử lý vấn đề tiểu quốc Hoa kiều ở Chợ Lớn
 
Kể từ sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam chia thành hai miền Nam Bắc thì tình hình làm ăn của Hoa kiều không còn hanh thông như trước.
 
Trước đó, ngoài Bắc, dưới chánh quyền Đảng Cộng sản Việt Nam, các bang hội Tàu đã bị giải tán, trường dạy chữ Tàu bị đóng cửa. Không giữ được văn tự và bang hội, người Tàu đất Bắc nhanh chóng bị đồng hóa với dân bản địa, không thể phân biệt được họ với người Việt bình thường nữa. Trong Nam, chánh quyền không muốn mạnh tay, nên đã phải chật vật hơn rất nhiều trong việc đưa cộng đồng Hoa kiều hòa nhập vào khối đoàn kết toàn dân, đồng thời vẫn để họ giữ gìn bản sắc, cũng như phát huy sở trường kinh thương.
 
B. Diễn biến công cuộc bắt buộc Hoa kiều nhập Việt tịch
 
Hoa kiều đã được hưởng lợi lộc khổng lổ ở Việt Nam nhưng lại không phải thực thi nghĩa vụ gì đối với quốc gia. Quy chế ngoại kiều ở trong Nam đã giúp họ không phải đóng thuế kinh doanh; thể chế bang hội tự trị khiến họ trở thành những tiểu quốc gia trong một quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Không chịu sự tài phán của tòa án Việt Nam, chẳng cần sự bảo vệ và giúp đỡ của cảnh sát, tự họ giải quyết với nhau theo phán quyết của các Bang trưởng. Sự khép kín của cộng đồng Hoa kiều là hành vi ích kỷ và bội bạc với đất nước đã cưu mang mình.
 
Để kiến thiết kinh tế cũng như tập hợp được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, việc đưa Hoa kiều hội nhập là vấn đề quan trọng hàng đầu. Chánh phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa mới được thành lập ở miền Nam ngày 26-10-1955, thì chỉ hơn một tháng sau, vào ngày 7-12-1955, Thủ tướng đã ban hành Dụ số 10 quy định về Bộ Luật quốc tịch Việt Nam. Điều 12 ghi rõ: “Con chính thức mà mẹ là người Việt Nam, và cha là người Trung Hoa, nếu sinh đẻ ở Việt Nam thì là người Việt Nam”. Theo đó, tất cả những ai gốc Tàu sinh ra ở Việt Nam đều bắt buộc phải nhập Việt tịch, để được có quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam.
 
Cách nền Đệ Nhất Cộng hòa xử lý vấn đề tiểu quốc Hoa kiều ở Chợ Lớn
 
Những người Tàu vẫn được hưởng đặc quyền đặc lợi bấy lâu, nay bỗng dưng thấy mình có nguy cơ bị thất sủng nên đã kiên quyết bất hợp tác với chánh quyền. Hơn 800.000 thần tử Hoa Hạ ở miền Nam Việt Nam chăm chú hướng về Đài Loan, trông chờ sự can thiệp của Tưởng Giới Thạch [Con số 800.000 này không tính người Minh Hương; thời điểm đó tổng dân số Việt Nam Cộng Hòa khoảng hơn 10 triệu].
 
Đinh ninh Thống chế Thạch sẽ “trị” được Thủ tướng Diệm, nên Hoa kiều xem Dụ lệnh số 10 như gió thoảng ngoài tai, không đáng để ý. Trước sự khinh thường luật nước đó, chánh quyền ban hành tiếp Dụ số 48 (ngày 21-8-1956), Sửa đổi Bộ Luật Quốc tịch Việt Nam, Điều 16 quy định:
 
Hoa kiều thổ sanh (sinh trưởng tại Việt Nam) sẽ là người Việt Nam, bắt buộc phải nhập và khai nhận quốc tịch Việt Nam, hoặc nếu không chịu nhập tịch thì có thể xin hồi hương (về Đài Loan) trước ngày 31-8-1957. Thời hạn ấn định cho những Hoa kiều sinh tại Việt Nam phải làm khai sinh để được cấp thẻ căn cước sẽ kết thúc ngày 08-4-1957, việc kiểm tra sẽ hoàn tất vào ngày 22-6-1957.
 
Bằng Dụ lệnh này, Thủ tướng Diệm cho thấy sự kiên quyết của chánh quyền để buộc Hoa kiều vào khuôn phép. Ai không muốn nhập tịch cứ sang Đài Loan sinh sống, mỗi người sẽ được chánh quyền cấp cho 400 đồng để “hồi hương”, đúng theo luật định.
 
Ngày 29-8-1956, Thủ tướng ban hành Dụ số 52 qui định Hoa kiều sinh sống tại miền Nam phải mang quốc tịch Việt. Khi có quốc tịch, họ được tự do giao dịch, đi lại và buôn bán. Người Tàu phải Việt hóa tên họ (như Trịnh, Quách, Mạch, Lâm, Giang, Diệp, Lưu, Vương, Hà, Hứa, Mã, Lý, Trần, Trương, v.v…) chứ không được xưng các tên ngoại quốc hay tên gọi riêng (như Chú, A, Chế…) kể cả bí danh, trong những văn kiện chính thức. Tên hiệu các cơ sở thương mại, văn hóa, phải viết bằng Việt ngữ.
 
10 ngày sau (6-9-1956), Thủ tướng Diệm lại ra Dụ số 53, hạ đòn quyết định, đánh thẳng vào nồi cơm của người Tàu. Dụ 53 chỉ định những nghề nghiệp mà các ngoại kiều, hay các hội xã, công ty ngoại quốc không được hoạt động, đó là:
 
1) Buôn bán cá thịt
2) Buôn bán tạp hóa
3) Buôn bán than, củi
4) Buôn bán xăng, dầu lửa và dầu nhớt
5) Cầm đồ bình dân
6) Buôn bán vải, tơ lụa, chỉ sợi,
7) Buôn bán sắt, đồng, thau vụn
8) Nhà máy xay lúa
9) Buôn bán ngũ cốc
10) Chuyên chở hàng hóa, hành khách bằng xe hơi, hay tàu thuyền
11) Trung gian ăn huê hồng.
 
Những ngoại kiều đang hoạt động những nghề trên phải thôi các nghề đó trong vòng 6 tháng đối với các nghề từ số 1 đến số 7, và một năm đối với các nghề từ số 8 đến số 11. Những ai vi phạm Dụ này sẽ bị phạt tiền từ 50.000 cho đến 5 triệu đồng, và có thể bị trục xuất. Người Việt Nam nào thông đồng với ngoại kiều vi phạm thì bị phạt 6 tháng đến 3 năm tù ở, và bị phạt tiền giống mức ngoại kiều vi phạm.
 
Tuy Dụ lệnh chỉ đề cập chung “ngoại kiều”, nhưng nhìn vào, ai cũng nhận ra, đối tượng của nó là Hoa kiều, vì 11 nghề đó là những hoạt động chính của họ.
 
Ngày 24-10-1956 thủ tướng Ngô Đình Diệm đắc cử tổng thống. Tuy nhiên, cho đến ngày 13-11-1956, theo Nguyễn Văn Vàng, Đặc ủy Trung Hoa sự vụ của chính quyền Sài Gòn lúc đó, thì “rất ít Hoa kiều đến khai nhận Việt tịch, Dụ 48 chưa đem lại kết quả khả quan”.
 
Ngày 28-11-1956, Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng quốc gia đặc trách kinh tế mời tất cả các đại diện nghề nghiệp Hoa kiều của Văn phòng Thương mại Chợ Lớn đến để nói rõ chính sách quốc tịch của chánh phủ. Ông Thơ cảnh cáo:
 
“Những người ngoại quốc nào còn muốn tiếp tục hoạt động kinh thương, vấn đề chính yếu là phải giải quyết cho xong vấn đề quốc tịch. Đừng nghĩ rằng chánh phủ sẽ không có biện pháp đối với những ai không muốn tiếp tục hành nghề và chịu thất nghiệp. Giải pháp đã có sẵn, nó nằm trong tầm tay của mỗi quí vị, và quí vị hãy tự quyết định lấy”.
 
Với hai Dụ lệnh 52 và 53, quy chế ngoại kiều ưu đãi bao đời nay dành cho người Tàu đã hoàn toàn bị bãi bỏ. Bị choáng bởi liều thuốc quá sốc, phản ứng của họ rất dữ. Họ tẩy chay thuốc lá điếu và không tiêu thụ thịt heo (là hai ngành nghề chính của người Việt lúc bấy giờ mới hình thành), thành lập Hội Hoa kiều tẩy chay hàng hóa Mỹ tại Việt Nam (nhằm làm áp lực buộc Hoa Kỳ phải góp phần can thiệp để Tổng thống Diệm thu hồi các Dụ lệnh trên). Chính quyền một mặt xoa dịu dư luận bằng cách cấp cho Hoa kiều thất nghiệp mỗi người được 200.000 đồng, nhưng hiệu lực của Dụ lệnh vẫn cứ y nguyên giá trị, bất dịch.
 
Cách nền Đệ Nhất Cộng hòa xử lý vấn đề tiểu quốc Hoa kiều ở Chợ Lớn
 
Cảnh sát Sài Gòn được phép bắt giữ và tịch thu thẻ căn cước Đài Loan của Hoa kiều để cấp lại thẻ căn cước Việt Nam cho họ. Cửa hàng của Hoa kiều kinh doanh 11 ngành nghề nói trên phải gấp rút chuyển tên người sở hữu để đứng tên thay thế.
 
Kinh tế miền Nam trong tháng 7 và 8-1957 bị ngừng trệ, hầu như tê liệt. Người Tàu ồ ạt rút hết tiền ký thác trong các ngân hàng, tổng số tiền rút ra từ tháng 11-1956 đến tháng 7-1957 là từ 800 triệu đến 1,5 tỷ đồng, tương đương 1/6 lượng tiền mặt đang lưu hành trên toàn quốc. Đồng bạc Việt Nam tại thị trường chứng khoán Hồng Kông liên tiếp bị mất giá từ 35 đồng/1 USD (1956) tăng lên 90 đồng (1957) và 105 đồng trên thị trường chợ đen.
 
Tiếp sức đồng hương, Hoa kiều Đông Nam Á cũng làm áp lực bằng cách tẩy chay hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam mà không do người Tàu bán. Cụ thể Hồng Kông từ chối mua 40.000 tấn gạo mặc dầu đã ký hợp đồng từ trước, số gạo này khi được chở qua Singapore thì cũng bị người Tàu ở Singapore từ chối không chịu mua. Báo chí Hoa ngữ ở Đông Nam Á đồng loạt lên tiếng đả kích chế độ Tổng thống Diệm bài Hoa. Đảng Cộng sản Trung Quốc nhân dịp này cũng chỉ trích chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa nhằm tranh thủ cảm tình của người Tàu hải ngoại. Đảng Cộng sản Việt Nam đẩy mạnh “công tác Hoa vận” ở Sài Gòn – Chợ Lớn, lôi kéo người Tàu theo “cách mạng”. Nền Đệ Nhất Cộng hòa vừa mới thành lập đã gặp phải ngay cơn thử thách lớn, tình hình cực kỳ nguy hiểm quyết định tồn vong của chế độ Cộng hòa non trẻ.
 
Thật ra, người Tàu cũng nhận biết sự kinh doanh miễn thuế của mình là bất lương; không gì đáng hổ thẹn bằng thụ hưởng lợi ích từ một đất nước đã cưu mang mình mà lại không phải đóng góp gì để đền đáp lại. Nhưng vấn đề họ lấy làm lo sợ nhất khi nhập Việt tịch là… phải thi hành quân dịch. Đã xa rồi cái thời người Tàu liều thân xông pha sa trường đền ơn tri ngộ của các Chúa Nguyễn. Những thế hệ người Tàu sau này lớn lên đã trở lại bẩm tính thiên phú là kinh doanh, mưu cầu lợi nhuận, họ không muốn phải tham gia vào trò chơi chiến tranh của người Việt. Tài sản dẫu tiêu tán thoòng vẫn có thể gầy dựng lại, nhưng sinh mạng nếu lỡ mất đi thì không thể thu hồi.
 
Giờ đây, họ bị bắt buộc phải lựa chọn giữa việc tiếp tục kinh doanh với điều kiện phải cho phép con em mình tham gia chiến tranh, tái diễn trò Quốc-Cộng sinh tử ở Việt Nam; và một bên là phải rời bỏ mảnh đất mình đã mấy đời gắn bó này. Huống chi, Hoa Kỳ đang ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa, cơ hội đầu tư đang mở rộng hơn bao giờ hết. Cuối năm ấy, hầu hết Hoa kiều đang sinh sống ở Nam Việt Nam đều nhập Việt tịch, chỉ hơn 40.000 người “hồi hương” về Đài Loan. Cuối cùng “cắc chú” đã phải hiểu ra: không thể sinh sống trên một đất nước mà không tuân thủ luật pháp của nước đó. Từ nay, máu của người Tàu đã cùng hội nhập với máu của người Việt, để gìn giữ nền Cộng Hòa.
 
Lê Vĩnh Huy
 
Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết “Chính sách cưỡng bách Hoa kiều nhập Việt tịch của Tổng thống Ngô Đình Diệm” đăng trên levinhhuy.wordpress.com.
 
 

 

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

Nguồn Email.

 levinhhuy.wordpress.com.

 
Tài liệu tham khảo:
 
Người Hoa tại Việt Nam, Nguyễn Văn Huy. Nxb NBC, Paris, 1973.
Tìm hiểu chính sách đối với người Hoa của chính quyền Sài Gòn qua các đạo dụ về vấn đề quốc tịch và vấn đề kinh tế ban hành trong hai năm 1955-1956, Trịnh Thị Mai Linh. Tạp chí Khoa Học, Đại học Sư phạm TPHCM, số 23-2010.
Người Hoa ở Nam bộ, Phan An. Nxb Khoa học Xã hội, 2005.
〈第二次世界大戰後越南之華人政策 (1945-2003)〉Chính sách người Hoa ở Việt Nam sau Thế chiến II (1945-2003), Huỳnh Tôn Đỉnh. Luận văn nghiên cứu thạc sĩ Đại học Quốc Lập, Đài Loan, 2006.
Cùng vài hồ sơ liên quan của Quốc sử quán Đài Bắc.
 
See the source image
 

Tử Gián – Trần Trung Chính

 Bài đọc suy gẫm: Tử Gián tức gián điệp hay Ông Trùm Hoàn Hảo, tác giả Trần Trung Chính phân tách đặc biệt về nhân vật Bác sĩ Trần Kim Tuyến và một số việc liên can đến Phạm Xuân Ẩn của phe cs. với danh xưng “người điệp viên hoàn hảo”. Hình ảnh chỉ có tính minh họa.

Ảnh Bác sĩ Trần Kim Tuyến (trên) và Phạm Xuân Ẩn (dưới)

(Kính dâng hương hồn các chiến sĩ tình báo của VNCH bị thảm sát bởi những tay sai của Việt Cộng núp dưới danh nghĩa các lãnh tụ đảng phái chính trị và các lãnh tụ tôn giáo)

Từ sau năm 2005, nhất là sau khi ông Phạm Xuân Ẩn qua đời, mỗi năm vào dịp 30 tháng 4, người ta lại đăng lại bài viết của ký giả Hoa Kỳ viết về ông cùng một số bài viết của một số tác giả khác (người Việt Nam và có lẽ là phía “bên thắng cuộc”). Những người viết về ông Phạm Xuân Ẩn đã khéo tặng ông danh xưng “người điệp viên hoàn hảo” và nêu bật thành tích của ông là đã cứu thoát bác sĩ Trần Kim Tuyến – Trùm Mật Vụ của chế độ VNCH – vào lúc Sài Gòn đang trong tình trạng “dầu sôi lửa bỏng” sắp sửa rơi vào vòng tay của bộ đội Cộng Sản Bắc Việt. Những gì đã được viết ra trong quá khứ thì không sai và cũng không có gì “cường điệu” so với sự thật; nhưng đó chỉ là hình ảnh của “hiện tượng” mà không phải là chi tiết của “bản chất” trong mối liên hệ “kỳ quặc” của “điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn” với ông trùm mật vụ Trần Kim Tuyến

Cả 2 nhân vật Trần Kim Tuyến và Phạm Xuân Ẩn đều đã qua đời từ lâu, nhưng bác sĩ Trần Kim Tuyến kỳ bí hơn ông Phạm Xuân Ẩn vì bác sĩ Trần Kim Tuyến không để lại bất cứ chứng từ nào về cuộc tham gia chính trị của cá nhân ông, cũng như chưa bao giờ có ký giả nào đến “phỏng vấn” hay quay film về sự nghiệp của ông. Vì vậy tất cả những sự kiện sắp sửa được nêu ra trong bài viết này đều là những “lý đoán”, cho nên độc giả nào đòi hỏi người viết phải đưa ra những văn bản hay hình ảnh để minh họa hay dẫn chứng các sự kiện đã nêu thì người viết xin trả lời chung là “impossible”.

Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo VNCH, chức vụ chính thức của bác sĩ Trần Kim Tuyến được bổ nhiệm là “Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị”, tuy nhiên không ai biết lương bổng hay nghi vệ của bác sĩ Tuyến như thế nào, lại càng không biết “trách nhiệm và phận sự” của Sở Nghiên Cứu Chính Trị mà bác sĩ Trần Kim Tuyến là Giám Đốc. Người ta cũng có thể dịch nhóm chữ MẬT VỤ sang tiếng Anh là SECRET SERVICE (có nghĩa là dịch vụ bí mật), tuy nhiên theo thói quen sử dụng của người Mỹ, Secret Service chỉ giới hạn trong việc “bảo vệ các yếu nhân” của Hoa Kỳ. Trong khi đó, về phía người Việt, Mật Vụ có nghĩa là Công An, Lính Kín, Cảnh Sát Đặc Biệt…Trong phạm vi rộng rãi hơn, Mật Vụ cũng có thể là Phản Gián, Tình Báo Xâm Nhập, An Ninh, Đặc Vụ…theo nhận xét của người viết: Sở Nghiên Cứu Chính Trị là tiền thân của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo thời Đệ nhị Cộng Hòa. Tôi gọi bác sĩ Trần Kim Tuyến là nhân vật “Kỳ Bí ” bậc nhất của VNCH vì những lý do sau đây :

1. Không ai biết rõ lý do nào bác sĩ Tuyến đã rời Sài Gòn từ 1962 để đi làm Tổng Lãnh Sự tại Cairo (Egypt).

2. Sau 1 tháng 11 năm 1963, cũng không ai biết bác sĩ Tuyến trở lại Sài Gòn vào thời điểm nào.

3. Không thấy bác sĩ Tuyến tham chính hay trở lại làm việc trong môi trường An Ninh – Tình Báo của VNCH.

4. Người ta đồn đoán là bác sĩ Tuyến làm việc “cho” CIA (dễ hiểu là bác sĩ Tuyến không phải là tỉ phú nên phải cần có phương tiện tài chánh để hoạt động) .

5. Việt Cộng có thói quen là bôi bác bêu xấu tất cả những “lãnh đạo của VNCH” với những bài viết có văn phong của những tên viết mướn vô học và thiếu giáo dục, dù những kẻ viết mướn này đã thành danh hay chưa thành danh. Cứ xem những tài liệu mà bọn đàn em của Lê Duẩn và Lê Đức Anh công khai xuất bản để bêu riếu và hạ nhục Đại Tướng Võ Nguyên Giáp thì đủ tỏ bọn Việt Cộng sẽ hạ nhục các cấp lãnh đạo của Việt Nam Cộng Hòa như thế nào. Tuy nhiên tôi không thấy bài viết nào đề cập đến bác sĩ Tuyến, không phải bọn chúng sợ uy lực của ông (VNCH đã sụp đổ thì uy lực bác sĩ Tuyến đâu có còn hiện hữu) mà là vì chúng không có bất cứ tài liệu về ông – dù là những tài liệu của Sở Nghiên Cứu Chính Trị hay của báo chí đề cập đến những thất bại hay thành công của ông!!!

6. Bác Sĩ Tuyến vẫn ở Sài Gòn hoạt động Tình Báo, đã tiếp xúc một cách giới hạn với một số ít nhân vật có ảnh hưởng lớn về mặt quân sự và chính trị, nhưng khi ông rời Sài Gòn vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, phía bên Việt Cộng bị “chấn động”. Cũng không ai hiểu tại sao bác sĩ Tuyến lại chọn Anh Quốc (mà không phải là Hoa Kỳ) là nơi cư trú tỵ nạn, và rồi ông sinh sống ra sao cho đến ngày lìa đời khoảng 1999 – 2000 (nghĩa là gần 25 năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975).

Người viết không có tham vọng viết lịch sử hay bình luận về thân thế và sự nghiệp của bác sĩ Trần Kim Tuyến, do đó trong tầm giới hạn của trí nhớ, tôi cố gắng phác họa những dữ kiện rời rạc xuất xứ từ nhiều nguồn gốc khác nhau để độc giả có thể mường tượng ra được những chiến công của chiến sĩ điệp báo Trần Kim Tuyến trong công cuộc đấu tranh gìn giữ sự sống còn của phần đất của người quốc gia trước sự xâm lăng bỉ ổi, trắng trợn và tàn nhẫn của bọn Việt Cộng (được sự yểm trợ toàn diện của Đế Quốc Cộng Sản).

Năm 1959, tại Sài Gòn, học giả Hoàng Văn Chí đã xuất bản quyển sách với tựa đề Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc. Năm 1986, nhà báo Từ Nguyên phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí (bài phỏng vấn này được in trong tập san Tự Do số 50, đề ngày 16 tháng 11 năm 1986 và phát hành tại Bỉ – Belgium), trích đoạn:…Tôi làm việc một mình. Tôi liên lạc được với một Ủy Viên trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội…” – Hết trích.

Thực ra, cụ Hoàng Văn Chí chỉ nói một phần sự thật, toàn vẹn của sự thật như sau :

1/ Mạng lưới thu thập thông tin tình báo của Sở Nghiên Cứu Chính Trị do bác sĩ Trần Kim Tuyến lãnh đạo đã thu thập tất cả những báo chí xuất bản ở Hà Nội.

2/ Ủy Viên trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến là Ấn Độ (có một số nhân viên làm việc cho Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc) – vì vậy họ đi Sài Gòn ra Hà Nội như đi chợ, nhân viên người Ấn Độ chỉ là người chuyển hàng chứ không phải là người đi thu thập sách báo in tại Hà Nội (người Ấn Độ không đọc được tiếng Việt).

3/ Người chuyển các sách báo in tại Hà Nội không giao hàng tại Sài Gòn mà giao hàng tại Rangoon (thủ đô Miến Diện ) khi những người Ấn quá cảnh tại Rangoon trước khi máy bay đáp xuống New Dehli. Nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị làm việc trong Tòa Đại Sứ VNCH tại Rangoon mới chuyển hàng từ Rangoon trở lại Sài Gòn. Nói như cụ Hoàng Văn Chí, hàng giao tại Sài Gòn làm sao tránh được những con mắt dòm ngó của Việt Cộng nằm vùng? 3 điểm mà tôi vừa nêu trên chứng tỏ bác sĩ Trần Kim Tuyến đã làm việc với Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc từ 1955: chúng ta nhớ lại rằng đích thân Tổng Thống Eisenhower bổ nhiệm Đại Tá Landsdale cầm đầu phái đoàn Tình Báo của Hoa Kỳ đi Sài Gòn vào năm 1953 để dọn đường cho một chính quyền được Mỹ “bảo trợ” nhằm thay thế chính quyền do người Pháp đã và đang “khuynh đảo” chính quyền miền Nam. Ông Landsdale không có tiếp xúc với chính giới miền Bắc và không đặt cơ sở hoạt động của CIA tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền ngày 25 tháng 6 năm 1954 thì giải pháp chia cắt đất nước đã được bàn tán vì chiến trường Điện Biên Phủ sắp đến hồi kết thúc với sự thắng lợi nghiêng về phía Việt Cộng.

Rồi Hiệp Định Đình Chiến giữa Pháp và Việt Minh được ký kết tại Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 với 300 ngày giao thời để nhân dân miền Bắc có quyền lựa chọn “đi vào Nam” hay “ở lại miền Bắc”. Đây chính là khoảng thời gian mà bác sĩ Trần Kim Tuyến cộng tác với Sở Tình Báo Hải Ngoại Anh Quốc để thiết lập “mạng lưới tình báo” nhằm dò la tin tức của Bắc Việt.

Ngay sau khi liên danh John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson đắc cử, các chính khách của Hoa Kỳ (bao gồm cả 2 đảng Cộng Hòa và đảng Dân Chủ) đến Sài Gòn đàm đạo với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, kín đáo đưa đề nghị Hoa Kỳ đem quân đội trực tiếp chiến đấu tại Việt Nam. Mọi người đều biết là Tổng Thống Ngô Đình Diệm thẳng thừng bác bỏ lời đề nghị này. Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc biết rõ mục tiêu của Hoa Kỳ là dùng quân lực Hoa Kỳ để tiêu diệt tiềm năng chiến tranh của Bắc Việt và cũng biết rõ là Tổng Thống Diệm không cho quân đội Hoa kỳ vào Việt Nam cho nên Hoa Kỳ chắc chắn “đốn bỏ” chướng ngại vật là anh em Tổng Thống

Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Vì không có thế lực nào cản trở được ý định của Hoa Kỳ, nên Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc khuyến cáo bác sĩ Tuyến nên “lánh mặt” khỏi Việt Nam vì nếu ở lại Sài Gòn, ở vào vị thế thân cận của ông, chắc chắn bác sĩ Tuyến sẽ bị giết. Đó là lý do, bác sĩ Trần Kim Tuyến xin đi làm Tổng Lãnh Sự tại Cairo và rời Sài Gòn từ 1962 (trước ngày 1 tháng 11 năm 1963 cả hơn một năm trời ).

Sau khi Trung Tướng Nguyễn Khánh mở cuộc “chỉnh lý” vào ngày 31 tháng giêng năm 1964 để đảo chính Tướng Dương Văn Minh, bác sĩ Trần Kim Tuyến trớ lại Sài Gòn và làm việc cho Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc. Đành rằng vì sự quen biết trước, nên bác sĩ Tuyến làm việc cho Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh, nhưng bác sĩ Tuyến không làm việc cho CIA vì nguyên nhân thầm kín sau đây:

A. Làm việc với CIA thì phải trung thành với CIA, phải tuân thủ những kỷ luật của chef CIA tại Sài Gòn, trong khi làm việc cho Cơ Quan Tình Báo Anh Quốc – dĩ nhiên phải “trung thành”, nhưng bác sĩ Tuyến được toàn quyền hành động – không chịu sự điều động cai quản của chef nào cả (vì Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc chỉ lấy tin tức chứ không nhúng tay vào các hoạt động chính trị của chính quyền Sài Gòn).

B. Bác sĩ Trần Kim Tuyến muốn bảo vệ mạng lưới thâu nhận tin tức của riêng ông đã gầy dựng từ 1955 ở ngoài Bắc. Họ là những chiến sĩ chống Cộng thật sự, nên họ trung thành với cá nhân của ông. Nếu bác sĩ Tuyến làm việc cho CIA, mạng sống của các chiến sĩ tình báo này (kể cả thân nhân trong gia đình ) có thể bị lâm nguy vì CIA có thể “bán” họ hầu đánh đổi lấy tù binh Mỹ đang bị giam tại Hỏa Lò Hà Nội !!!

Tôi đoan chắc bác sĩ Trần Kim Tuyến không làm việc cho CIA vì nếu là nhân viên của CIA, ông và gia đình đã có tên trong “danh sách di tản”. Ngày 29 tháng 4 năm 1975, điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn phải đưa bác sĩ Tuyến lên phi cơ trực thăng của “các nhà báo Mỹ” !!!

Theo như ông Phạm Xuân Ẩn kể lại : sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, bác sĩ Tuyến được một Thiếu Tá – mà bác sĩ Tuyến giới thiệu là người cháu chở tới Văn Phòng của ông, nhờ ông đưa vào Tòa Lãnh Sự Mỹ để di tản…Tôi nhận thấy có những điểm “bất bình thường” như sau :

1. Bác sĩ Trần Kim Tuyến đến văn phòng ông Phạm Xuân Ẩn chỉ có một mình, có nghĩa là “vợ con và gia đình đã di tản trước“ rồi

2. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 là hạn chót cho người Mỹ di tản. Trong khi đó sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, hải quân VNCH vẫn còn trên sông Sài Gòn và bến Bạch Đằng, Dẫn chứng, qua cuộc điện đàm giữa Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang và Tổng Thống Dương Văn Minh, tướng Cang hỏi Tổng Thống DVM có rời Sài Gòn hay không để ông chờ đón tại bến Bạch Đằng. Tổng Thống DVM nói ông không thể bỏ Sài Gòn được, nhưng xin cho gia đình của con gái và người con rể là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài đi theo HQVN rời Sài Gòn. (Đại Tá Nguyễn Hồng Đài hiện ở Pasadena –Nam Cali). Tướng Cang nghe lời đầu hàng của Tổng Thống DVM trên hệ thống phát thanh, ông chỉ thốt ra được 3 chữ : THẰNG KHỐN NẠN.

Bác sĩ Trần Kim Tuyến có thừa sức di tản bằng các phương tiện khác, nhưng ông đến gặp ông Phạm Xuân Ẩn để “nhờ vả” chỉ để test lại bài toán. Đó là nếu ông Phạm Xuân Ẩn trở mặt và không chịu giúp bác sĩ Tuyến rời khỏi Sài Gòn thì “đao phủ thủ” (là viên Thiếu Tá – mà bác sĩ Tuyến giới thiệu là cháu) sẽ hạ sát “điệp viên nhị trùng” ngay lập tức, rồi sau đó 2 người sẽ xuống tàu rời Sài Gòn ngay. Tuy nhiên, ông Phạm Xuân Ẩn dù đứng khác chiến tuyến, nhưng thông cảm cho “người bạn” đang lâm vào thế kẹt nên ông tận tình giúp. Cũng nhờ vậy, tôi đoan chắc rằng chính lòng trắc ẩn có tình người của ông Phạm Xuân Ẩn đã giúp ông sống còn, nếu không ngày 29 tháng 4 lại là ngày giỗ hàng năm của ông rồi còn đâu

Tôi cũng đoan chắc là khi ông Ẩn lái xe đưa bác sĩ Tuyến đến địa chỉ số 39 đường Gia Long, “đao phủ thủ” vẫn lái xe gắn máy bám sát theo xe của ông Ẩn và chờ đến khi bác sĩ Tuyến lên được chiếc trực thăng, viên Thiếu Tá này mới trở về nhà của mình. Hiện nay chưa một ai xác nhận được lai lịch của vị Thiếu Tá đã chở bác sĩ Tuyến đến văn phòng của ông Ấn.

3. Trước ngày Tổng Thống Thiệu chịu trao quyền cho Tổng Thống Trần Văn Hương, bác sĩ Tuyến đã mưu toan lật đổ Tổng Thống Thiệu, vậy lý do nào ngày 29 tháng 4 năm 1975, bác sĩ Tuyến mới chịu rời Sài Gòn ?. Theo ý kiến của riêng tôi, bác sĩ Tuyến là vị chỉ huy có tinh thần trách nhiệm với thuộc cấp: ông đã dùng uy tín của ông để đưa các nhân viên và gia đình của họ rời khỏi Sài Gòn bằng nhiều phương cách khác nhau. Đồng thời ông cũng xóa các “dấu vết” trong mạng lưới tình báo của ông để Việt Cộng khi kiểm soát toàn thể Sài Gòn không thể mò tìm gây phiền toái và nguy hiểm cho những người vì nhiều lý do không thể rời khỏi Sài Gòn được.

Bên ngành Cảnh Sát Đặc Biệt cũng có trường hợp tương tự: Trung Tá Nguyễn Hữu Hải- nguyên Phụ tá Đặc Biệt của Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Quân Khu 2, khi di tản về tới Sài Gòn thì các tướng Huỳnh Thới Tây, tướng Nguyễn Văn Giàu… đã rời Việt Nam. Nhận thấy Văn Khố của Cảnh Sát Đặc Biệt vẫn còn nguyên,

Trung Tá Hải đã ra lệnh tiêu hủy và ông là sĩ quan cao cấp nhất của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt đã bàn giao cho Việt Cộng tại Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia trên đường Võ Tánh tại Sài Gòn (Ghi nhớ : Biện Lý Triệu Quốc Mạnh – kẻ nằm vùng của Việt Cộng – được Tổng Thống DVM bổ nhiệm làm Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành, nằm trên đường Trần Hưng Đạo chớ không phải được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Cảnh Sát nên Triệu Quốc Mạnh không biết gì về Văn Khố của Cảnh Sát Đặc Biệt).

Trung Tá Nguyễn Hữu Hải bị Việt Cộng trả thù bằng cách giam giữ ông tới 17 năm, ông ra tù sau tướng Lê Minh Đảo và đưa thẳng sang Hoa Kỳ vào năm 1993(tội của ông không được ghi trên văn bản nhưng Việt Cộng giam giữ lâu vì ông ra lệnh phá hủy các văn kiện tối mật mà chúng muốn biết).

4. Sau khi bốc Trung Tướng Trần Văn Đôn và bác sĩ Trần Kim Tuyến rời khỏi Sài Gòn, chắc chắn chiếc trực thăng chỉ đủ xăng bay ra Hạm Đội 7, đổi phi cơ trên Hàng Không Mẫu Hạm nhưng tôi không rõ phi cơ chở 2 vị bay sang Thái Lan hay bay vào căn cứ Clark trên đất Philippines, chỉ biết rằng Trung Tướng Trần Văn Đôn thì đến Pháp định cư, còn bác sĩ Tuyến thì đến Anh định cư. Có lẽ Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc trả tiền “về hưu” cho bác sĩ Tuyến nên ông dùng số tiền này mua một motel nhỏ để dưỡng già: bác sĩ Tuyến vừa làm manager, vừa làm bồi phòng, vừa làm janitor, vừa đun nước sôi pha trà… cho khách, giống như một cao thủ võ lâm “rửa tay gói kiếm” trong các tiểu thuyết kiếm hiệp của Trung Hoa.

5. Tôn Tử khi viết quyển BINH PHÁP cách nay hơn 2,500 năm, trong chương “Dụng Gián”, ông có phân loại nhiều loại gián điệp mà Tử Gián có nghĩa là Gián Điệp chỉ được dùng có 01 lần duy nhất. Tôi gọi bác sĩ Trần Kim Tuyến là Ông Trùm Hoàn Hảo (như tiêu đề bài viết này) vì sau khi giúp bác sĩ Tuyến rời khỏi Sài Gòn, điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn đã bị bọn lãnh đạo của Việt Cộng nghi ngờ lòng trung thành, chúng vinh thăng cho ông Ẩn từ Đại tá lên Thiếu Tướng Tình Báo nhưng cô lập và không cho tiếp xúc với bất kỳ ai khiến ông bất mãn. Theo như tiết lộ của bà Irina trong tập Bút Ký Irina xuất bản hồi 1992 tại Hoa Kỳ, trước khi Liên Sô sụp đổ, bà Irina sang Việt Nam phỏng vấn ông Ẩn (vì bà là Trưởng Ban Việt Ngữ của đài phát thanh Moscow), ông chua chát nói: “ông chỉ có làm tình và làm báo, chớ ông không có làm tình báo” !!

Bác sĩ Trần Kim Tuyến đã đẩy điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn trở thành Tử Gián nghĩa là vô hiệu hóa khả năng làm tình báo của ông Ấn sau năm 1975. Bác sĩ

Trần Kim Tuyến lìa đời trước ông Phạm Xuân Ẩn chừng non 10 năm, nhưng bác sĩ Tuyến ra đi với tấm lòng thanh thản. Trong khi đó, ông Phạm Xuân Ẩn lìa đời với tấm lòng buồn bực ấm ức, chả thế mà trong di chúc, ông dặn lại con cháu: “sau khi ông chết, xin đừng chôn chung với những người Cộng Sản…”

Đọc Tam Quốc Chí, đoạn nói về Khổng Minh bị Tư Mã Ý bao vây mà trong thành chỉ còn vài trăm quân lính, Khổng Minh liền cho mở cửa thành, ngồi ở cuối đường ngó thẳng vào thành, cầm quạt phe phẩy, vậy mà Tư Mã Ý không dám tiến quân, rồi sau đó cho lui binh. Mao Tôn Cương bàn rằng : …

Kế của Khổng Minh thành công vì Khổng Minh biết Tư Mã Ý là người suy tính cẩn thận. Mưu kế ấy sẽ trở nên thất bại nếu người vây thành là Trương Phi hay Hứa Chữ thì không xong vì 2 ông tướng nóng nẩy này cho dù biết có cả vạn binh phục kích đi nữa cũng không care.

Tương tự như vậy, chính vì quá hiểu biết tâm tư + tính tình của bọn lãnh tụ Việt Cộng nên bác sĩ Tuyến mới triệt hạ được khả năng làm “điệp viên hai mang” của ông Phạm Xuân Ẩn.

Xin gửi cả sự TÂM PHỤC lẫn KHẨU PHỤC đến bác sĩ Trần Kim Tuyến về tài năng và trí tuệ tuyệt vời của ông.

Trần Trung Chính

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

Nguồn Email.

 

 

 

 


Làm Sao Chuyển Lửa Hữu Hiệu? – Kami

Bài đọc suy gẫm:  Làm Sao Chuyển Lửa Hữu Hiệu hay Bàn Về Lực Lượng Hậu Thuẫn của tổ Chức Chính Trị của tác giả Kami.

Hình ảnh minh họa:   Blog 16 xin cám ơn và hân hạnh giới thiệu đến các bạn Photographer kiêm nhà thơ Nhất Hùng, người  đã có mặt trong 2 ngày vận động để ghi lại những hình ảnh đặc biệt về đồng bào Việt Nam tị nạn cộng sản từ khắp nơi tụ họp về Washington D.C., tức toà Bạch Ốc và Quốc Hội để hổ trợ Thỉnh Nguyện Thư với 150 nghìn chữ ký yêu cầu Hành, Lập Pháp Hoa Kỳ chế tài cộng sản Việt Nam vì những tiếp tục vi phạm về Nhân Quyền tại quốc nội.

“… tại sao áp lực cuộc sống đang đè nặng lên vai tầng lớp dân nghèo, là những người công nhân, nông dân, các cựu chiến binh, những người làm ăn chân chính sống dựa vào đồng lương hay lực lượng dân oan khổng lồ, mà sự bức xúc, phẫn uất của họ có thể ví như một quả bom nổ chậm nhưng không hề có phản ứng?”
Tôi rất thích câu “Lãnh tụ hay lãnh đạo, cũng như tã lót, cần phải được thay đổi thường xuyên, vì cùng một lý do!”, câu trên có nghĩa người lãnh đạo ở bất kỳ đâu nếu để tại vị lâu thì sẽ nhiều khiếm khuyết và dẫn đến có các hành xử bẩn thỉu trong công việc lẫn tư cách. Có lẽ vì thế mà nhiều quốc gia đã quy định rõ trong Hiến pháp của họ về kỳ hạn đảm trách chức vụ đối với các quan chức cấp cao, vì ta biết quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn tới sự tha hóa tuyệt đối. Đó là biện pháp phòng tránh và ngăn ngừa.
Với thể chế chính trị độc tài toàn trị như ở Việt nam hiện nay, thì chính quyền cũng như vậy, nghĩa là cũng cần phải có sự thay đổi. Bởi vì nếu một chính quyền nhà nước nào đó tự cho mình cái quyền độc quyền chính trị thì hậu quả sẽ dân tới sự tha hóa của các nhà lãnh đạo, bởi vì họ không chịu bất kỳ một cơ chế kiểm soát và điều chỉnh (check and balances) nào. Hậu quả là đất nước đó sẽ không cơ cơ hội phát triển hết khả năng và tiềm lực vốn có của mình có thể và thực tế đã minh chứng điều đó đang là sự thật.
Để giải quyết sự bất cập này, để thay thế các quan chức lãnh đạo cao cấp hay cả một chính quyền, ở các quốc gia tiến bộ theo chế độ chính trị tự do dân chủ điều này đã được giải quyết bằng các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, công khai và minh bạch có đa đảng tham gia mà, khi đó chính quyền sẽ do người dân tự lựa chọn thông qua lá phiếu bầu cử của mình. Đây là sự cạnh tranh chính trị lành lành mạnh để cử tri quyết định chọn những người lãnh đạo có tài để phụng sự cho mình và đất nước của họ. Dẫu biết rằng thể chế chính trị dân chủ tự do chưa phải là một thể chế chính trị hoàn hảo nhất, xong cho đến giờ phút này thì nó vẫn là cái thể chế chính trị tốt nhất so với các thể chế chính trị hiện có của xã hội loài người đồng thời đây cũng là cách tránh tình trạng xung đột chính trị giữa các phe phái trong một quốc gia.

 Bản chất vốn dĩ của sinh vật nói chung và con người nói riêng là tính phản kháng đối với tự nhiên, bởi nhờ đặc tình này mà nó đã tồn tại và phát triển không ngừng. Nếu không có đặc tính phản kháng chắc chắn sinh vậy hay con người không thể tồn tại đến ngày hôm nay. Trong xã hội con người cũng thể, sự phản kháng muôn mặt kể cả sự phản kháng với chính quyền luôn là bản năng tiềm ẩn trong mỗi con người nó luôn luôn có khả năng bộc phát khi có cơ hội. Mọi sự bức xúc của con người nếu không được phép tự do giải tỏa thì tới một lúc nào đó nó sẽ bật tung như một cái lò xo, hay một nồi hơi bị hỏng van. Và hậu quả thế nào cũng hết sức khó lường trước, ví dụ chuyện ở Đài loan người ta có các cửa hàng cho khách hàng sử dụng dịch vụ trút sự giận dữ, bằng cách đập bát, đập đĩa và các vật dụng. Dịch vụ này khá phát đạt bởi số người mắc bệnh phản ứng với stress tăng lên trong một xã hội công nghiệp hóa ở Đài loan khá nhanh.
Lực lượng hậu thuẫn của các tổ chức chính trị khi được phát huy sẽ có tác dụng thế này
 
Ở xứ Đài loan giàu có, dân chủ, văn minh mà còn như vậy, thì chuyện số người mắc bệnh phản ứng với stress này ở xã hội Việt nam đang ở mức độ nào? Hình như chưa có một nghiên cứu khoa học nghiêm túc nào đề cập cụ thể về tỷ lệ phản ứng của người dân Việt nam đối với chính quyền hiện tại. Khi mà toàn xã hội sống trong một chế độ đảng trị, chuyên chế và mất dân chủ rất nặng nề theo như lời của Giáo sư – Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, tình trạng đó dẫn tới hậu quả tạo nên cách chính sách chính trị, kinh tế, xã hội hết sức bất cập, khiến giá cả tăng vọt làm ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống của những người lao động chân chính. Đó là chưa nói đến khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội ngày càng lớn. Vậy mà hình như tình hình chính trị xã hội Việt nam nhìn bề ngoài đến nay vẫn có vẻ ổn định, không biết có phải vì dân Việt nam đã quá quen chịu đựng, để rồi họ thờ ơ vô cảm hay không? Nếu không phải như vậy thì tại sao áp lực cuộc sống đang đè nặng lên vai tầng lớp dân nghèo, là những người công nhân, nông dân, các cựu chiến binh, những người làm ăn chân chính sống dựa vào đồng lương hay lực lượng dân oan khổng lồ, mà sự bức xúc, phẫn uất của họ có thể ví như một quả bom nổ chậm nhưng không hề có phản ứng?
Câu trả lời cho vấn đề ở Việt nam là có lẽ vì chưa có người (tổ chức) làm công việc châm ngòi nổ để tạo nên một hiệu ứng đám cháy lớn trên diện rộng, nhưng điều quan trọng hơn cả là hình như các chính đảng và tổ chức chính trị trong nước và hải ngoại chưa xác định được lực lượng nào sẽ hậu thuẫn cho chính đảng hay tổ chức của mình.
Nguyên tắc chung bắt buộc của các chính đảng hay tổ chức chính trị trong sự vận động để dân tới một sự thay đổi về chính quyền trong hoàn cảnh xã hội độc tài hay tự do dân chủ điều quan trọng là phải xác định lực lượng hậu thuẫn cho chính đảng của mình. Việc tính toán lựa chọn đó phải dựa trên lực lượng chiếm tỷ lệ số đông trong xã hội, vì một khi việc lựa chọn chính quyền thông qua việc bầu cử, thì khi bỏ phiếu thì ngài tỷ phú cũng chỉ bằng bà quét rác vì đều chỉ một lá phiếu bầu như nhau, do đó đích hướng tới thông minh nhất của mọi chính đảng nhằm tới sẽ là tầng lớp dân nghèo có thu nhập thấp. Vì lực lượng này đã nghèo do vậy sẽ luôn có mặc cảm chán ghét chính quyền và mong muốn có sự thay đổi bất kể tương lai sẽ tốt hay xấu.
Biết điều đó để thấy đó là trách nhiệm và thách thức của các tổ chức chính trị trong và ngoài nước phải nghiên cứu để đề ra các biện pháp hành động ngay, để sao cho phải tạo nên hiệu ứng nhất hô bá ứng, một người hô để vạn người đều hưởng ứng đồng lòng, đồng loạt làm theo, điều tưởng chừng đơn giản đó vậy mà cũng khó mà tìm ra. Bởi cần phải hiểu hành động của con người phải bắt đầu từ nhận thức của họ, chỉ khi nào người dân đã thức tỉnh, cộng với áp lực nhiều mặt của cuộc sống đè nặng lên họ thì khi đó sức mạnh của họ sẽ được nhân lên vô cùng lớn. Nhưng trên thực tế công việc này không được quan tâm thỏa đáng, bằng chứng là sự tuyên truyền vận động của các chính đảng hay tổ chức chính trị đối lập hoàn toàn dựa vào mạng internet. Xin hỏi đa số tầng lớp dân nghèo có thu nhập thấp là lực lượng chủ lực của mọi cuộc thay đổi chính quyền ở Việt nam hiện nay họ có điều kiện tiếp cận với các thông tin trên mạng internet hay không?
Tình trạng trên có lẽ vì chúng ta nhầm lẫn vai trò của truyền thông và vai trò của các tổ chức chính trị, nhiều người nghĩ các nhà báo, các bloggers phản biện chính quyền (phải) là những người hoạt động chính trị và chính trị gia thì cũng cần phải tập trung cho việc viết báo hay viết blog để tuyên truyền. Đó là những suy nghĩ hết sức sai lầm, nhà báo họ làm vai trò phản biện xã hội, cũng ví như sản xuất ra sản phẩm nhằm khai sáng dân trí, nhưng công việc phân phối các sản phẩm nói trên (truyền tải, đưa các thông tin) tới quần chúng thì là trách nhiệm của các tổ chức chính trị.

 
Phải chăng bin đinh lày nà nơi sản xuất đô na của mẽo?
Vì với hiện tại các thông tin mang tính chất phản biện xã hội, nâng cao dân trí để người dân hiểu được quyền của họ và trách nhiệm của chính quyền ở góc độ mang tính đối lập mới dừng lại ở các chương trình radio (số lượng rất ít) và các trang mạng trên internet. Nó lại là những cái quá xa vời với những người nghèo vì họ không có khả năng và kỹ năng để tiếp cận, mà tầng lớp dân nghèo, dân oan họ cần các loại báo giấy, các bản photo copy nhỏ gọn để truyền tay nhau. Điều đó sao không thấy ai hay các tổ chức chính trị triển khai để làm, thử so với các điều kiện kỹ thuật hiện nay với các bản báo, tạp chí hay truyền đơn trên khuôn khắc gỗ bằng đá, in roneo, in typo ngày xưa của những người cộng sản họ đã từng làm ngày xưa và hiệu quả của nó cao tới mức nào. Ngay trong các nhà tù lớn những người cộng sản họ còn tìm mọi cách, mọi điều kiện để xuất bản báo bí mật để tuyên truyền cho nhau nhằm củng cố tinh thần?
Các tổ chức chính trị, các chính trị gia nghĩ gì về việc này?
Công việc này không khó, dễ làm vấn đề quan trọng là cần phải giữ được bí mật. Mỗi cơ sở trong nước của các tổ chức hỉ cần một máy tính, một máy in kèm photo copy với chi phí khoảng 400 $, mỗi ngày phát tán khoảng 100 -200 bản in lại các bài viết quan trọng, mang giá trị thông tin cao để quần chúng đọc và truyền tay nhau. Mỗi ngày một ít, nhiều ngày sẽ nhiều dần lên, công việc nếu tiến hành thường xuyên liên tục trong một vài năm sẽ mang lại hiệu quả vô cùng lớn. Ở Việt nam, muốn có sự thay đổi, muốn có cách mạng hoa Nhài hay hoa Cải thì đây có lẽ là biện pháp duy nhất có hiệu quả cao.
Trong xã hội có muôn vàn ngành nghề khác nhau, mỗi người mỗi nghề, mỗi người mỗi việc. Chỉ riêng trong vấn đề tổ chức đấu tranh chính trị đã có không ít các lĩnh vực, các vấn đề cần phải giải quyết. Mỗi lĩnh vực cần phải có các chuyên gia chuyên sâu vào vấn đề đó, người làm chính trị và và các nhà báo, blogger cũng vậy việc ai người đó làm để tạo nên tính chuyên nghiệp, đồng thời tránh tình trạng dẫm chân lên nhau. Đối với những người muốn tham gia hay hoạt động hay dấn thân làm công việc chính trị thì cũng vậy, cần phải có kiến thức hiểu biết về vấn đề khoa học chính trị, ai không (hoặc chưa) biết thì phải chịu khó dành thời gian để tìm hiểu, đọc các tài liệu, suy ngẫm để biến nó thành kiến thức của mình để áp dụng cho công việc mà mình theo đuổi cho đúng và đảm bảo tính khoa học. Tránh để xảy ra tình trạng như một số người không có kiến thức và hiểu biết về tổ chức đấu tranh chính trị, mượn việc làm chính trị nhằm khuếch trương tạo tiếng vang về tên tuổi của cá nhân mình, bằng những tuyên bố gây hiệu ứng sock và phản cảm cho dư luận, đây là một việc làm lợi bất cấp hại cần phải chấm dứt. Vì như thế vô tình tự họ biến mình thành một gã hề trong mắt của quần chúng, điều đó hết sức nguy hiểm bởi nó làm xấu đi hình ảnh và thiện cảm của quần chúng nhân dân đối với phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt nam vốn dĩ đang èo uột và mỏng manh.
Làm bất cứ việc gì, kể cả việc đấu tranh chính trị xin mỗi người chúng ta nên suy nghĩ đến cái lợi, cái hai. Đâu là cái hay, cái dở để xác định cái nên và không nên làm. Vì nhiều khi sự nhiệt tình cộng với sự ngu dốt bỗng chốc biến bản thân mình thành kẻ phá hoại.
Nếu so sánh công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ ở Việt nam với quốc gia láng giềng Myanmar thì thấy chúng ta còn thiếu rất nhiều yếu tố căn bản cần phải có, nhưng ngược lại thì quá thừa nhưng cá nhân và tổ chức mang danh nghĩa đấu tranh chính trị, mà thực chất chỉ là một phường đánh trống múa rối với mục đích nhằm gây thanh thế và tạo dựng tên tuổi.
Thử hỏi những cái đó có mang lại lợi ích gì cho phong trào đấu tranh vì tự do dân chủ của Việt nam hay không, hay ngược lại là hành động phản tác dụng?
 Kami.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

 

The

Links:

Kami RFA Blog’s

Nhat Hung Picasa Web

© Người Chuyển : Nguyễn Quang Duy
 @Diễn Đàn Người Dân Việt Nam

Con Sán Lải – Chu Chi Nam

Bài đọc suy gẫm: Con Sán Lải –  Dựa vào lịch sử, tác giả Chu Chi Nam đã đưa ra nhận định, phân tách sâu sắc về những lúng túng và ứng xử vụng về của đảng cộng sản Trung Quốc từ xưa tới nay nơi mặt ý thức hệ. Ghi chú:  Hình ảnh chỉ có tính cách minh họa.

VÌ KHÔNG DỰA TRÊN MỘT NỀN TẢNG TRIẾT LÝ VỮNG CHẮC, CHÍNH QUYỀN TRUNG CỘNG KHÔNG THỂ CÓ MỘT ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ, NGOẠI GIAO HỢP LÝ, HỢP THỜI VÀ ĐÁNG TIN CẬY

Một nhà tư tưởng đã nói : «  Tất cả đến từ triết lý. » Câu này đúng không những đúng cho mỗi cá nhân con người, mà đúng cho cả chính quyền của một quốc gia dân tộc.
Thật vậy, một người có một triết lý sống vững chắc, thì lúc đó họ mới có thể suy nghĩ, hướng dẫn hành động của mình phù hợp với triết lý sống đó. Họ mới trở thành hợp lý với chính mình, hợp lý với những người chung quanh và mới có thể gây được niềm tin : Niềm tin tự chính bản thân và niềm tin đến từ người chung quanh.
Đối với chính quyền của một quốc gia, dân tộc, nếu không có một triết sáng tỏ, rõ ràng, vững chắc, thì họ không thể hành động hợp lý, minh bạch rõ ràng, tất nhiên không thể gây được niềm tin cho chính dân họ, mà còn không gây được niềm tin với những nước, dân tộc khác.
Chính vì vậy mà có một nhà nghiên cứu về chính trị ngoại giao của Á châu, đặc biệt là của Trung cộng có viết :
«  Chừng nào chính quyền Trung cộng không dựa trên một nền tảng triết học vững vàng, hợp lý, sáng tỏ, thì đường lối chính trị, ngoại giao của Trung cộng không hợp thời và đáng tin cậy. «
Chúng ta hãy cùng nhau xem xét vấn đề trên.

Triết lý, triết học là gì

Triết học là môn học nghiên cứu về vũ trụ và đời sống của vạn vật.
Triết lý là lý luận sâu xa, tất yếu phải có của mọi sự vật, mọi nguyên tắc, mọi lý do trên đời.
Theo Tây phương, chữ  « philosophie « gồm 2 chữ: “ philo “ là yêu thích « ; «  sophie « là sự khéo léo, khôn ngoan, biết cách sống, cách cư xử ( la sagesse) ; còn có nghĩa là sự hiểu biết ( le savoir ).
Nhà triết học ( le philosophe) là người có sự khôn ngoan, khéo léo, hiểu biết, có cái nhìn cao thượng và khóang đạt ( de hauteur de l’âme et de détachement ) ; là người thích suy nghĩ, luôn đặt những câu hỏi về con người, về vũ trụ và về cuộc sống.
Không cần đi sâu vào sách vở, những ai, vào tuổi đời đã quá nửa đời người, chúng ta hãy suy ngẫm bản thân chúng ta, xét người, xét việc chung quanh, theo như Khổng Tử nói : «  Tận kỳ tâm, tri kỳ tính, ắt tri thiên «  ( Suy nghĩ cái tâm của chính mình, thì sẽ biết tính mình và tất biết việc trời đất ), chúng nhận thấy rằng : những ai có một triết lý sống vững vàng, sáng tỏ, thì họ biết rõ họ muốn cái gì, làm cái gì, và điều họ muốn, họ làm có đúng hay không. Từ đó họ ung dung tự tại, tự tin, không mâu thuẫn với chính mình, hành xử khéo léo, hợp tình, hợp lý, gây được niềm tin đối với người.
Trái lại, người nào không có một triết lý sống vững vàng, nay thế này, mai thế khác, không biết rõ mình muốn gì, làm cái gì, đầy mâu thuẫn, không tự tin với chính mình, tất nhiên từ đó, không thể gây niềm tin với người.
Điều này không những đúng với cá nhân mà còn đúng với cả một chính quyền.
Một chính quyền hành động mà không dựa trên một nền tảng triết lý rõ ràng, không biết mình muốn cái gì, hành động cái gì, và điều mình muốn, mình hành động có đúng hay không, từ đó đi đến chỗ không gây được niềm tin trong dân, tất nhiên không thể có sự hỗ trợ của dân, và tất nhiên không thể nào có được một đường lối ngoại giao được sự tín nhiệm của những nước khác.

Từ điểm này, chúng ta xét chính quyền Trung cộng, hay nói đúng hơn Đảng Cộng sản, từ ngày thành lập cho tới ngày hôm nay.  

 Từ những sản phẩm độc hại bị tẩy chay cho đến thay đổi nhãn hiệu sang “Made in RPC” (Made in People’s  Republic of China)

1 ) Từ năm 1921 tới năm 1949

Đảng Cộng sản Tàu được thành lập năm 1921, tại Thượng Hải. Hai người quan trọng, mặc dầu buổi họp thành lập ban đầu vắng mặt, nhưng được mọi người tôn lên làm Chủ tịch và Phó Chủ tịch là Trần độc Tú ( Chen Duxiu) và Lý đại Siêu ( Li Daizhao).
Trần độc Tú ( 1879 – 1942) : Người theo Tây học, Pháp học thì đúng hơn ngay từ lúc đầu. Con một vi đại quan quân sự vùng Mãn châu. Sau khi bố chết thì được ông nội nuôi nấng. Sau đó tới Hàng châu học nghề đóng tàu và dạy tiếng Pháp. Ông hoạt động chính trị cách mạng từ thời thanh niên. Sau phải trốn sang Nhật ( từ năm 1900 tới 1902), tại đây ông có học trường Sư phạm và đại hoc Wesada. Trở về nước năm 1903, ông dạy học ở một trường cao đẳng ở tỉnh An Huy. Từ năm 1907 tới 1910, người ta mất dấu tín về ông. Có giả thuyết cho rằng ông sang Pháp học đóng tàu. Ông không theo Tôn dật Tiên, vì ông chỉ trích chính sách bài người Mãn châu của ông này. Sau Cách mạng Tân Hợi 1911, ông đặc trách về giáo dục của tỉnh An Huy. Năm 1915, ông thành lập tờ báo Thanh Niên, có ảnh hưởng rất mạnh trong giới trí thức và sinh viên học sinh lúc bấy giờ. Tờ báo này có phụ đề bằng tiếng Pháp ( La Jeunesse), điều này chứng tỏ ông hoàn toàn theo tư tưởng Tây phương, chống lại tư tưởng của Khổng, theo như nội dung tờ báo, và có Pháp học.
Ông đóng một vai trò quan trọng trong Phong trào Sinh viên, học sinh biểu tình vào ngày 4/5/1919. Hai năm sau, Đảng cộng sản được thành lập (1921), ông được bầu làm chủ tịch.
Sau cuộc nổi dậy của cộng sản ở Thượng Hải bị thất bại vào năm 1927 bởi sự đàn áp của Tưởng giới Thạnh. Ông bị chỉ trích trong đảng và mất chức Chủ tịch, ít lâu sau bị trục xuất ra khỏi Đảng, sau đó ông theo Đệ Tứ quốc tế Cộng sản của Trotski, bị Tưởng bắt và chết năm 1942.

Lý đại Siêu (Li Daizhao), cũng là người theo Tây học. Sau đó ông nghiên cứu về chủ nghĩa Marx. Ông làm quản thủ thư viện Đại học Bắc kinh, là cha vợ (đầu ) của Mao và đã đưa Mao vào làm việc chung với mình.
Câu nói nổi tiếng của ông : « Ở những nước bị trị, đấu tranh giai cấp đồng nghĩa với đấu tranh giành độc lập « .
Phải công nhận rằng từ năm 1921 tới 1949, Đảng Cộng sản Tàu dựa rõ ràng trên lý thuyết Mác Lê Staline. Những người như Trần độc Tú, Lý đại Siêu và ngay cả Mao lúc đầu đều tin tưởng cuồng nhiệt lý thuyết trên. Tiếc rằng lý thuyết này chỉ là một cái gì cặn bã của nền văn hóa Tây phương. Ông Domenach, một nhà rất am tường về lịch sử, văn hóa, triết học Tàu, có nói rằng những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Tàu không đủ trình độ để thấu hiểu cái hay cái dở của văn hóa Tây phương, cũng như cái hay cái dở của văn hóa Đông phương, đã chối bỏ tất cả những cái hay của văn hóa Đông phương, vội vã nhập cảng cái cặn bã của văn hóa Tây phương là chủ nghĩa Mác. Giới trí thức Tây phương họ đã ý thức điều này, như ông Pierre Joseph Proudhon, người đã từng bút chiến với Marx, đã nói : «  Chủ nghĩa của Marx, nếu được áp dụng, thì nó trở thành con sán lãi của xã hội. » Sau gần 100 năm thực hiện, chúng ta thấy lời nói trên quả là đúng, vì ở bất cứ xã hội cộng sản nào cũng bị mắc vào nạn tham nhũng hối lộ. Thêm vào đó, đảng cộng sản quả là con sán lãi, là một chính quyền thứ nhì, ăn lương và bổng lộc hơn cả chính quyền chính thức, mà lương và bổng lộc đó là đến từ thuế, lấy từ dân.
Ở đây tôi không thể đi sâu vào việc phê bình chủ nghĩa Marx Lénine Staline.
Ngay cả tập tài liệu mang tựa đề  «  Le Matérialisme dialectique et le Matérialisme historique «  ( Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật sử quan ), được Staline viết vào tháng 9 năm 1938 và được những người cộng sản coi như Kinh Thánh, điển hình là nếu ai theo dõi lịch sử và hình ảnh của Đảng cộng sản Tàu, thì đều thấy hình ảnh Mao ngồi trước nhà, ở trụ sở vùng Diên An, cầm tập tài liệu mang tên tiếng Pháp này.
Nhiều người cho rằng đây là một tập tài liệu mang tính chất khoa học, nhưng thực tế chẳng khoa học một chút gì, chỉ là những cái phủ nhận và xác nhận vô căn cứ ( affirmation gratuite). Có dịp tôi sẽ phê bình rõ tập tài liệu này. Ở đây tôi chỉ đưa ra một vài dẫn chứng.
Như Staline viết :
«  Contraire à la métaphysique, la dialectique regarde la nature non comme état de repos et d’immobilisme, de stagnation et d’immuabibité, mais comme un état de mouvement et de changement perpétuels, de renouvellement et de développement incessants, où toujours quelque chose nait et se développe, quelque chose se désagrère et disparaît «  J. Staline – Les Questions du Lénisme – trang 787 – Nhà xuất bản Norman Béthume – Paris 1969).
( Trái với siêu hình, biện chứng pháp nhìn vạn vật không ở trạng thái tĩnh và bất động, mà như một trạng thái động và phát triển không ngừng, nơi đó lúc nào cũng có một cái gì đó sinh ra và phát triển, cái gì đó tan rã và biến mất.)
Nguyên ở đây Staline dùng chữ siêu hình để chỉ tất cả những triết lý, triết học khác với triết học duy vật biện chứng là cách vơ đũa cả nắm ; và có chắc rằng những triết học đó nhìn thế giới trong một trạng thái tĩnh hay không. Điều này chưa chứng minh mà đã quyết đoán ( affirmation gratuite ). Quyển sách của Staline có giá trị tuyên truyền, quảng cáo như quảng cáo dầu cù là, «  Hàng tôi tốt nhất, tất cả hàng khác đều dở. Mại vô !  Triết lý duy vật biện chứng và duy vật sử quan là hay nhất. Tất cả triết lý khác là bỏ đi. Hãy theo chúng tôi ! « ,  hơn là một quyển có giá trị về khoa học và triết học.
Và còn nhiều đoạn văn tư tưởng khác mang cùng một lỗi này.
Theo khoa học, để kết luận một vấn đề, thì phải có đủ nguyên nhân ắt có và đủ, đây mới có nguyên nhân ắt có, thế mà Staline đã vội kết luận. Không có một tý gì là khoa học, tuy nhiên vẫn nghĩ mình là khoa học.
Trở về với Đảng Cộng sản Tàu, là trong thời gian đấu tranh cướp chính quyền, đảng này đã dựa rõ ràng, minh bạch, trên một lý thuyết chính trị, trái sai chưa cần nói tới.

2)  Từ năm 1949 đến 1963

Thời gian đầu nắm chính quyền tới lúc tranh chấp Nga – Hoa bùng nổ. Trong thời gian này triết lý chính trị lúc ban đầu đã bắt đầu đi trật hướng.
Trật hướng ở chỗ không còn «  Tình huynh đệ cộng sản «  nữa, trong việc Trung cộng gửi quân sang chiếm Tây Tạng và việc tranh chấp Nga – Hoa.
Trung cộng tố cáo Liên Sô là đi theo chủ nghĩa xét lại ( révisionnisme), không theo chủ nghĩa chính thống của Marx. Nhưng xét cho cùng thì cả 2 nước, từ thời Lénine đã đi theo chủ nghĩa xét lại. Theo Marx thì cách mạng cộng sản chỉ có thể xẩy ra ở những nước có một nền kỹ nghệ phát triển cao, vì chỉ ở nơi đây mới có giai cấp vô sản. Trong khi đó thì Lénine làm cách mạng cộng sản trong một nước nửa kỹ nghệ, nửa canh nông. Mao làm cách mạng cộng sản ở một nước hoàn toàn canh nông. Nhất là chiến lược «  Lấy nông thôn bao vây thành thị «  của Mao là dựa vào nông dân để làm cách mạng, hoàn toàn trái với Marx.
Trên phương diện tranh luận lý thuyết, Đảng Cộng sản Tàu đã gửi một Phái đoàn hùng hậu, dẫn đầu bởi Đặng tiểu Bình, Thư Ký thứ nhất của Đảng, gồm có Lưu thiếu Kỳ, Chủ tịch nhà nước, Chu ân Lai, Thủ tướng chánh phủ, sang Moscou, vào tháng 10 năm 1963, để tranh luận với Liên Sô, trong kỳ họp Đại hội Đảng của nước này. Những luận điệu do Đặng tiểu Bình đưa ra, và về sau ông thường nhắc lại, đó là «  Chỉ có chân lý thật khi nào được kiểm chứng bởi thực tế, thực tiễn. » Đây chỉ là quan điểm của chủ nghĩa duy thực tế, duy kinh nghiệm hạ cấp. Về khoa học ai cũng biết nếu lấy con mắt bình thường làm sao chúng ta có thể thấy được vi trùng hay các hành tinh cách trái đất cả tỷ cây số. Vì vậy chủ nghĩa duy kinh nghiệm, duy trực giác thật là hạn chế. Chính Tôn Tử của người Tàu đã nói :
«  Cho nên nhắc được cái lông mùa thu, không phải là nhiều sức, trông thấy mặt trời, mặt trăng không phải là sáng mắt, nghe thấy tiếng sấm, tiếng sét không phải là sỏi tai… Cho nên sự thắng của người thiện chiến không có tiếng khôn ngoan, không có cái công mạnh mẽ » ( Tôn Ngô Binh pháp – Ngô văn Triện dịch – trang 74+75).
Có những chân lý không kiểm chứng được bằng thực tế, thực tiễn. Như chân lý toán học, một khoa học có tính khoa học nhất trong những khoa học, mà cuối đời Marx công nhận và bỏ công ra nghiên cứu.
Thật vậy, chúng ta lấy một phương trình : f(x) = 2x. Phương trình này, chân lý này đúng với bất cứ giá trị nào của X, đi từ cực tiểu tới cực đại. Trên đời này không có con số nào nói lên được cực tiểu và cực đại. Cũng như trong hình học, vòng tròn được định nhĩa là tổng số những điểm cách đều một điểm cố định là trung tâm. Ở trên đời này không có một cái vòng tròn nào mà có thể kiểm chứng, kiểm nghiệm được với định nghĩa trên, vì vòng tròn nào, nếu tính theo sai số cao nhất, cũng là «  méo «  so với định nghĩa trên.
Cũng như câu nói cũng của họ Đặng : «  Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa « , mà Trung cộng và Cộng sản Việt Nam ngày hôm nay thường nhắc tới.
Câu này mâu thuẫn, vì kinh tế thị trường là kinh tế tự do, tư nhân, không bị chỉ huy, không thuộc về nhà nước. Còn kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là kinh tế quốc doanh, không có tự do và do nhà nước chủ động.

3)  Từ năm 1963 tới năm 1972
Đây là khoảng thời gian có những biến cố quan trọng về chính trị quốc nội cũng như quốc ngoại. Đó là Cách mạng Hồng Vệ Binh, tranh chấp Nga – Hoa tới mức cao điểm và việc Trung cộng bắt tay với Mỹ.
Cách mạng Hồng vệ binh có mang một phần triết lý ý thức hệ, đó là chủ trương cách mạng cộng sản triệt để và đấu tranh giai cấp đến cùng, mà sự thể hiện của nó sau này rõ ràng nhất là cuộc diệt chủng của tập đoàn Pol Pot, đã giết hơn 2 triệu dân trên tổng số hơn 5 triệu dân Căm bốt. Nhưng lý do chính của cuộc cách mạng này là cuộc tranh giành quyền hành giữa phe Mao trạch Đông và phe Lưu thiếu Kỳ, Đặng tiểu Bình và Chu ân Lai.
Ai cũng biết kế hoặch Đại Nhảy vọt, chủ trương bởi Mao, vào cuối những năm 50, đầu thập niên 60, bị thất bại. Thực tế Mao bị loại bỏ  ra ngoài quyền hành. Quyền hành ở Tàu lúc bấy giờ thuộc về bộ ba Lưu – Đặng – Chu. Sau đó Mao dùng chiến lược «  Hạ tầng ép thượng tầng « . Hạ tầng đây là sinh viên học sinh với sự yểm trợ của quân đội. Đó là ý nghĩa chính của cuộc cách mạng Hồng vệ binh. Nhưng cuộc cách mạng này đã đi quá lố, chính Mao về sau cũng không thể chấp nhận. Những sinh viên học sinh theo cách mạng đã hành xử như kiểu Soljennytsine nói : «  Cộng sản là những người đến từ một hành tinh khác với mục đích duy nhất là phá hủy tất, chém giết tất những cái gì thuộc về hành tinh con người « .
Về ngoại giao, 2 sự kiện nổi bật của thời gian này, đó là cuộc tranh chấp Nga Hoa đi đến cao điểm, có lúc người ta nghĩ có cuộc chiến tranh lớn giữa Liên Sô và Trung cộng. Lợi dụng tình thế, Hoa kỳ đã nhảy vào, khai thác sự chia rẽ này, đi đến việc bắt tay giữa Trung cộng và Hoa Kỳ năm 1972.
Cuộc gặp gỡ này có rất nhiều nguyên do, nhưng trong đó có 2 nguyên do chính :
Thứ nhất, cả 2 nước Liên Sô và Trung cộng, mặc dầu nói đến «  Tình huynh đệ cộng sản «  , nhưng trên thực tế cả 2 nước đều là đế quốc, nước nào cũng muốn làm chủ phong trào cộng sản quốc tế. Vì vậy đi đến tranh chấp và nước nào cũng ngụy biện, tố cáo nước kia là theo chủ nghĩa xét lại. Nhưng cả 2 đều xét lại tư tưởng của Marx từ lâu.
Lý do thứ 2, đó là đến từ đầu óc giản tiện ( simpliste), nếu không nói là suy nghĩ một chiều, không suy đi, tính lại của giới lãnh đạo cộng sản Tàu, bắt đầu từ Mao, cho tới ngày hôm nay. Thú dụ điển hình : Mao nghĩ rằng chim chóc phá hoại mùa màng, nay phát động phong trào giết chim, bắt dân già trẻ lớn bé phải đi giết chim. Hậu quả, chim không còn, sâu bọ sinh sản, phá hoại mùa màng. Mao đơn giản nghĩ rằng một nước kỹ nghệ là một nước có tổng sản lượng sản xuất sắt thép cao, bắt mọi gia đình phải làm lò luyện thép, ngay cả lò luyện bỏ túi « nhỏ, mang nồi niêu xong chảo nấu chảy thành sắt. Sau đó sắt thép luyện ra thiếu phẩm chất, nay làm lại nồi niêu xong chảo cũng không xong. Vận động dân làm những việc vô bổ. Cũng như Mao đơn giản nghĩ rằng một cường quốc phải là một quốc gia có bom nguyên tử. Đây là một trong những lý do đưa đến tranh chấp Nga – Hoa, vì Nga không chịu giúp Trung cộng làm bom nguyên tử. Lợi dụng tình thế này, một cách gián tiếp, theo như một giả thuyết, Hoa Kỳ nhảy vào giúp Trung cộng làm bom nguyên tử, bằng cách để cho 2 nhà bác học nguyên tử Hoa Kỳ, gốc Tàu, trốn về Trung Cộng.
Nhiều người hoan hô tinh thần thực tế của Trung cộng trong việc bắt tay với Hoa Kỳ. Tôi không chối cãi. Nhưng theo tôi, trên nguyên tắc triết lý căn bản, triết lý chính trị, thì có điều sai trái. Đó là, về ngoại giao, trước đó thì Trung cộng chửi Hoa Kỳ với tất cả mọi ngôn từ, nào là «  Hoa Kỳ, thế giới của sự bóc lột, của tội ác « , nào là « Hoa kỳ, con hổ giấy « , nay một sớm một chiều đổi giọng, làm như vậy không những dân không biết tin vào đâu, mà ngay cả những quốc gia trên thế giới cũng nghi ngờ chính quyền Trung cộng. Hành động đó, trên thực tế có nghĩa là từ bỏ triết học duy vật biện chứng, duy vật sử quan, mặc dầu ngay cho tới ngày hôm nay giới lãnh đạo Trung cộng vẫn hô hào là trung thành với « triết lý nền tảng này ».

4)   Từ  năm  1972 tới ngày hôm nay

Từ năm 1972 cho tới ngày hôm nay, có những biến cố quan trọng, đại để như sau : Mao chết năm 1976, Đặng thực sự nắm quyền năm 1978 và cuộc viếng thăm Hoa kỳ của ông vào cùng năm, chiến tranh biên giới Việt Hoa năm 1979, Biến cố Thiên An môn 1989. Sau đó Trung cộng công nhận cho Pháp Luân Công hoạt động, rồi lại cấm đoán và đàn áp. Ngày hôm nay thì Trung cộng, nửa muốn trở về tư tưởng Khổng Tử, nửa không.
Chúng ta cùng nhau đi vào từ từ, chi tiết của từng biến cố và nêu rõ sự thiếu vắng một nền triết lý căn bản để tựa lên của chính quyền Trung Cộng.
Trước đó, chiến tranh biên giới Nga Hoa, nay chiến tranh biên giới Việt Hoa chứng tỏ những lời nói «  Thế giới đại đồng cộng sản « , «  Tình huynh đệ xã hội chủ nghĩa, môi hở răng lạnh «  chỉ là những danh từ xuông, và chỉ có lợi cho Hoa kỳ. Như chúng ta đã biết, vào lúc này là đang ở thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Trong thời gian này Hoa kỳ dùng chiến lược Be Bờ của Paul Nitzé và Georges Kennan, gồm có 2 thời kỳ : thời kỳ phòng thủ, be bờ và thời kỳ tấn công. Phòng thủ từ cuối Thế Chiến thứ 2 cho tới năm 1972, qua cuộc gặp gỡ Mao Nixon ở Thượng hải. Tấn công từ 1972 tới khi chế độ cộng sản sụp đổ vào năm 1989, khi bức tường Bá linh bị phá vỡ. Có lợi cho Hoa kỳ, vì để tấn công, Hoa kỳ đã dùng chiến tranh tâm lý, mở thêm những đài phát thanh hướng về những nước cộng sản, và đồng thời nói lên cho dân trên thế giới biết rằng ý thức hệ cộng sản, chế độ cộng sản là sai lầm, không mang lại ấm no cho dân, mà chỉ mang lại nghèo đói và bất công ; không mang lại hòa bình, tình huynh đệ cộng sản, mà chỉ mang lại chiến tranh và chết chóc ; không phải môi hở, răng lạnh, mà răng cắn vào môi.
Về biến cố Thiên An Môn, ngày hôm nay chúng ta càng rõ, nhất là với quyển Nhật ký của Triệu tử Dương, đương kim Tổng bí thư đảng lúc bấy giờ. Nếu xét trên bình diện triết lý, ý thức hệ, thì đó là một ý định đặt lại giá trị của triết lý ý thức hệ Mác Lê, chủ trương độc khuynh, chỉ có một ý thức hệ, chủ trương độc đảng, chỉ có một đảng, mà muốn bắt kịp con tàu tiến bộ triết lý ý thức hệ thế giới, chủ trương đa khuynh, đa đảng.
Phong trào Thiên an môn thất bại, không phải là không có sự ủng hộ của dân và thanh niên, học sinh, sinh viên, công chức, mà là vì có sự cấu kết của một số cán bộ chóp bu, thượng tầng, tiêu biểu bới Đặng tiểu Bình, Lý Bằng, Dương thiệu Côn và một nhóm quân đội bảo thủ.

Biến cố Thiên An Môn tại Bắc Kinh năm 1981 – biến cố đánh dấu bước thụt lùi về Tự Do-Dân Chủ tuy nhiên cả thế giới sẽ nhớ mãi hình ảnh người thanh niên anh dũng cản đường xe tăng quân đội.

Theo ông Ruan Ming, người đã từ lâu trong Đoàn Thanh niên Cộng sản, là cộng sự viên đắc lực của Hồ diệu Bang, cựu Tổng bí Thư đảng, người đã từng viết bài diễn văn nổi tiếng cho Đặng tiểu Bình, vào kỳ họp Trung Ương lần thứ 3, của Đại hội thứ 11 của Đảng cộng sản Tàu, vào năm 1978 :
«  Trong cuộc diễn biến của Phong trào dân chủ 1989, tám mươi phần trăm cán bộ trung cấp của Đảng và của Chính quyền đều có cảm tình và ủng hộ Phong trào. Bảy mươi phần trăm Bộ trưởng và Thứ Trưởng cũng ủng hộ. Điều này chứng tỏ rất rõ vào ngày 15 và ngày 18, khi những nhân vật nổi tiếng của mọi tầng lớp bày tỏ công khai lập trường của họ, mong muốn rằng chính quyền công nhận lòng yêu nước của sinh viên, mong muốn chính quyền tiếp tục đối thoại với họ và không dùng phương pháp mạnh. Những người đầu tiên bày tỏ bất đồng trong việc dùng bạo lực quân đội, chính là ba vị Phó Chủ tịch quân sự của Ủy Ban Thường vụ của Quốc hội, cũng như 800 tướng về hưu đã chống đối việc dùng quân đội để đàn áp. » ( Ruan Ming – Deng XiaoPing – Chronique d’un empire : 1978-1990  – trang 258 – nhà xuất bản Philippe Picquier – Paris – 1992).
Cuộc đàn áp đẫm máu Thiên an Môn 1989, một lần nữa chứng tỏ triết lý bảo thủ quân chủ phong kiến rồi quân chủ tập trung tới quân chủ cộng sản, vì chế độ, ý thức hệ cộng sản, chỉ là mặt trái mặt phải của một đồng tiền quân chủ, mà đại diện chỉ là một thiểu số chóp bu, ngày xưa là vua và một thiểu số quan lại bảo thủ, ngày nay là Bộ Chính trị, thiểu số này rất phản động, không nghĩ đến quyền lợi của dân, làm bất cứ việc gì, với bất cứ giá nào, ngay cả giết sinh viên, học sinh, để bảo vệ chức quyền của mình. Chính ở điểm này tôi cho rằng, cho tới ngày hôm nay, mặc dù có sự tăng trưởng, nhưng tương lai nước Tàu vẫn còn bấp bênh. Đúng như lời ông François Mittérand, cự Tổng Thống Pháp, nói vào ngay sau Biến cố Thiên An Môn :
«  Một chính quyền dùng súng bắn vào sinh viên, học sinh, thì chẳng khác nào dùng súng bắn vào tương lai của mình. »
Một biến cố quan trọng trong thời gian từ 1972 cho tới ngày hôm nay, ngay sau biến cố Thiên an môn, là chính quyền Trung cộng cho phép Pháp Luân công hoạt động, sau đó lại cấm và bắt, bỏ tù những người theo triết lý này.
Pháp luân công là một triết lý sống đơn giản, thực tiễn, dựa trên những triết lý, tôn giáo, tư tưởng cổ truyền của Tàu. Theo đó con người phải sống lương thiện, ăn hiền, ở lành, không giết người, làm việc chi hại đến người, không nói dối, lừa gạt. Thêm vào đó, Pháp luân công cho rằng con người là tổng thể, là cái gì hòa hợp nhịp nhàng giữa thể xác và tinh thần. Chính vì vậy họ chủ trương cần phải có tập thể dục, hít thở điều hòa,  «  Một tinh thần tốt đẹp, luơng thiện trong một thân thể khỏe mạnh, quân bình. »
Triết lý này đã được phần lớn dân và cán bộ đảng, nhà nước đi theo. Nhưng chính vì vậy lại đe dọa triết lý Mác Lê Mao, nên chính quyền phải vội cấm đoán, rồi triệt hạ, bỏ tù những ai theo triết lý này, như chúng ta thấy ngày hôm nay.
Biến cố quan trọng nữa trong thời gian này là Chính quyền Trung cộng quyết định phục hồi tư tưởng Khổng học, đã cho thiết lập cả trăm viện nghiên cứu Khổng học tại trong và ngoài nước.

Tài tử  nổi tiếng của Hồng Kông Châu Nhuận Phát thủ vai Khổng Phu Tử. 

Điều này chứng tỏ rằng đã có những người trong Đảng ý thức rằng ý thức hệ, nền triêt lý Mác Lê Mao đã lỗi thời, phải thay thế bằng một ý thức hệ khác (1). Tuy nhiên cũng có người chống lại, vì ý thức hệ của Khổng Tử có thể nói là hoàn toàn trái ngược lại với ý thức hệ Mác Lê Mao. Chấp nhận cái này có nghĩa là triệt bỏ cái kia. Chính vì vậy, mà cách đây mấy tháng, vào tháng 8, tự nhiên bức tượng khổng lồ của Khổng Tử bị mất một cách âm thầm ở quảng trường Thiên An Môn ; nhưng một thời gian sau lại được dựng lại. Có giả thuyết cho rằng, vì có sự tranh chấp trong đảng, ở mức độ cao, nên mới có hiện tượng này, chứ dân thường làm sao dám làm và đâu có phương tiện để làm. Tôi nghiêng về giả thuyết này. Chẳng khác nào như việc đối xử với Pháp luân công.  Sự lúng túng đi tìm một triết lý căn bản, một ý thức hệ hợp lý, hợp thời hãy còn là một vấn đề nan giải cho chính quyền Trung cộng hiện nay.

Cách đây hơn 200 năm, Napoléon đã nói : «  Nước Tàu là một con hổ đang ngủ. Khi nó thức dậy thì thế giới sẽ rung chuyển ». Rồi vào những năm 70, một nhà trí thức Pháp, ông Alain Peyrefitte viết quyển sách mang tựa đề : «  Khi nước Tàu thức giấc … », đã trở thành sách bán chạy nhất vào thời bấy giờ. Nhất là gần đây qua bản tường trình của Quỹ Tiền tệ thế giới (FMI), theo đó sản lượng tính theo đầu người hàng năm, tính theo giá trị tiền tệ là 5 000$ ; nhưng tính theo khả thế mua bán, thì là hơn 7 000$, nhân với hơn 1,3 tỷ người, thì tổng sản lượng quốc gia là vào khoảng 10 000 tỷ ; và theo dự đoán của FMI, chỉ cần năm sau năm, thì tổng sản lượng của Trung cộng sẽ bắt kịp Hoa Kỳ và vượt Hoa Kỳ. Từ đó nhiều người liên tưởng đến hiện tượng quá khứ : Hoa Kỳ bắt kịp tổng sản lượng của Anh quốc vào đúng năm 1900, thế rồi liền sau đó Hoa Kỳ trở thành đại cường quốc trên nhiều lãnh vực, chiến thắng Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến Tranh Lạnh. Cũng từ đó nhiều người suy đoán là Trung Cộng sẽ trở thành đại cường quốc, sẽ tạo nên nhiều cuộc chiến tranh và làm lay chuyển thế giới.
Cái nhìn của tôi có đôi phần ngược lại. Theo tôi Trung cộng hiện nay mới chập chững bước vào nền văn minh thương mại, mà lại là một thứ thương mại rừng rú, làm mất niềm tin không những ngay với chính dân họ, mà còn mất niềm tin với nhiều quốc gia trên thế giới. Và với niềm tin thì người ta có thể làm nên bất cứ một cái gì, như một câu nói : «  Với niềm tin người ta có thể phá vỡ những thành trì hay cũng có thể xây dựng lên những thành trì. Không có niềm tin thì người ta không làm được gì cả. »
Thêm vào đó chính quyền Trung cộng vẫn bám lấy ý thức hệ cộng sản Mác Lê Mao, mặc dầu biết rõ ý thức hệ triết lý này đã lỗi thời.
Và theo tôi nghĩ, để có niềm tin cho một con người và ngay cả cho một chính quyền, một quốc gia, dân tộc, thì phải có một căn bản triết lý vững vàng, hợp thời. Giới lãnh đạo và ngay cả giới trí thức Trung cộng không đủ trình độ để tạo nên một triết lý ý thức hệ mới, muốn bỏ ý thức hệ của Marx không xong, muốn lấy ý thức hệ của Pháp Luân Công, của Khổng giáo, của Nho giáo cũng không được, vì trái với tư tưởng của Mao. Chính Mao đã nói : «  Khổng Tử chỉ là con chó giữ nhà cho chế độ phong kiến ; «
Trong tình trạng đó, mặc dầu kinh tế Tàu có phát triển gần đây, nhưng theo tôi nghĩ, thì con hổ Tàu chưa thực thức tỉnh, vì không có một triết lý hành động hợp lý, hợp thời, nói chi đến làm rung chuyển thế giới.

Paris ngày 18/12/2011

Chu chi Nam

(1)    Xin đọc thêm những bài «  Sự khác biệt giữa Khổng giáo và cộng sản.. « , cùng những bài viết về Trung cộng, trên : http://perso.orange.fr/chuchinam/

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

 

The

Links:

Chu Chi Nam


Cơ Hội Bằng Vàng – Long Điền

Bài đọc suy gẫm: Cơ Hội Bằng Vàng – Long Điền


Hình ảnh minh họa: Biểu tình trước tân tổng lãnh sự việt cộng tại Frankfut am Main, Germany.


Cơ hội bằng vàngLong Điền

Câu nầy của nhà tường thuật thể thao Huyền Vũ để nói về các cơ hội, vận may bị bỏ lỡ. Còn chuyện nước non  trước sự thành công của Cách Mạng Hoa Lài bên Tunisai và Ai Cập thì dân mình nghĩ sao đây?

– Tôi còn nhớ như in, dạo năm 1989 khi Đông Đức và 12 nước Đông Âu trên đà sụp đổ, lúc đó thì Liên Xô chưa tan rã nhưng cũng nguy khốn tới nơi. Xem truyền hình Hoa Sen Liên Xô (lúc đó VC cho coi thoải mái) nhìn cảnh dân chúng Liên Xô xếp hàng ở tại Moskow để mua bánh mì, tivi quay cảnh các cửa hàng trống trơn không còn 1 món ăn nào (vì không còn nguyên liệu) tôi nói với bà xã: “bọn chúng chắc chết tới nơi, mình chuẩn bị tống táng chúng là vừa.”

– Một ông hàng xóm là cán bộ cấp tỉnh ủy sang chơi, thanh minh: “Anh thấy đó, tôi tuy là cán bộ cấp tỉnh nhưng tôi hoàn toàn không đồng ý với đường lối độc tài, sắt máu của đảng. Năm 1945 tôi là tiểu đoàn trưởng tôi đã phản đối tên chính trị viên trong vụ sát hại hàng trăm tín đồ Cao Đài rồi chôn dưới cái giếng lạng ở Tân Đông Hiệp (Dỉ An, Biên Hoà) nên từ đó tôi bị lưu ý, kiểm điểm, hạ tầng công tác đều đều.”

Chấm dứt câu chuyện anh cán bộ tâm sự: “Mong anh ghi nhận và nhớ giùm tôi, sau nầy có gì (Có thay đổi chế độ) anh làm ơn thanh minh, cứu giúp tôi nhé”. Thời điểm đó bọn CSVN hoang mang và lo sợ vô cùng, nhưng chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội bằng vàng.

– Lúc đó người dân trong nước và cả người dân Hải Ngoại đã bỏ qua cơ hội tốt đẹp, vì thời điểm đó hầu hết bọn chúng lo chôn dấu tài sản, tẩu tán vàng vòng nữ trang chuẩn bị bôn tẩu vì sợ 1 cuộc đổi đời thì chúng bị trả thù.

– Quốc tế lúc đó cũng không thèm lý đến Việt Nam, Hoa Kỳ bỏ quên Việt Nam, Trung Cộng và Liên Xô thì sống dở, chết dở đâu còn chi viện gì cho đàn em. VC lúc đó yếu xìu, ai xô cũng ngã. Chúng ta đã bỏ lỡ 1 cơ hội bằng vàng để “Đổi Đời” mà ít tốn máu xương.

– Nhưng ngày nay có người lại bàn: “Bây giờ cho dù Cách Mạng Hoa Lài Tunisia, Hoa Sen Ai Cập thành công rực rỡ, nhanh chóng, ít tốn hao sinh mạng, nhưng Việt Nam mà muốn lật VC thì khó trăm lần so với các nước Bắc Phi kia”. Vì sao?

– Vì hiện nay do thế giới muốn ổn định, muốn cạnh tranh đầu tư, nên Quỹ Tiền tệ Quốc Tế, Ngân hàng Quốc Tế, Hoa Kỳ, nhiều nước Châu Âu chi viện cho VN mỗi năm hàng mấy tỉ USD thì khó sụp lắm!!!

– Nhiều cơ hội CSVN  sụp đổ mà Quốc Tế và Mỹ cứu vớt, không cần biết đến lòng mong muốn của toàn dân Việt là làm sao cho bọn bán nước, hại dân nầy sụp đổ!!!

– Nhưng có phải vì thế mà bi quan chăng?  Không, hoàn toàn không, mà muốn thực hiện công cuộc Cách Mạnh thì phải nghiêm túc, mày mò, chịu khổ sở nhọc nhằn, kết hợp toàn dân thì sẽ  làm nên chuyện.

 

 

 

 

 

 

Một sốngười Đức bản xứ cũng tham gia biểu tình chống độc tài, ủng hộ quyền tự trị của người Tây Tạng. “Xứ sở này đã kinh nghiệm và không hoan nghênh cộng sản, xin mời các ông về đi”


–  Muốn làm cho CSVN sụp đổ thì chúng ta phải phải làm gì những gì? Xin trình bày một cách giản dị, bởi vì bài viết chủ yếu là dành cho Nông Dân và Công Nhân, thành phần chiếm trên 90% nhân số tại Việt Nam. Như một nhà phân tích Tây Phương đã từng nói: “Tương lai làm cho Cộng sản sụp đổ là do Dân Miền Tây” cũng  có thể đúng lắm vì nhiều cuộc nổi dậy gần đây xuất phát từ 6 tỉnh Miền Tây:

1- Phải cắt cái bầu sửa Quốc Tế và Mỹ đi trước đã. Đồng thời vạch ra cho thế giới biết là CSVN tàn ác không thua Al Quaeda, Mafia, Đức Quốc Xã để người ta xa lánh chúng. Điều nầy do người Việt Hải Ngoại và Quốc nội cùng hợp tác thì sẽ thành công. Công cuộc vận động xuống đường của đồng bào Hải Ngoại là để cho toàn thế giới biết được cách cai trị hà khắc, sự xử sự bạo lực như mafia của CSVN như thế nào để họ dần xa lánh và ủng hộ cho dân oan, cho các phong trào Dân Chủ trong nước.

2- Trong nước thì huy động toàn dân dùng ngay chính Hiến Pháp của chúng mà đánh chúng (dù cho Hiến Pháp của chúng đầy rẫy bất công) như LS Cù Huy Hà Vũ và BS Nguyễn Đan Quế, HT Quảng Độ đã dùng.

3- Hàng ngày kêu gọi mọi người dùng lối tuyên truyền rỉ tai (để chúng khó bắt), dùng ngay báo chí của chúng đang hàng ngày về các tệ nạn xã hội, các vụ quan tham cướp đất, tham nhũng bị lộ từ trên xuống dưới, nội bộ đấu đá, tố cáo lẫn nhau v.v….(xài báo VC không lo bị bắt vì in tài liệu  nước ngoài)

4- Hàng ngày, mỗi người làm 1 việc thôi: “kêu ca chế độ thất nghiệp tràn lan, vật giá gia tăng, xăng dầu lên giá hàng tuần, điện tăng, cúp điện dài dài, học phí phi mã, bữa no bữa đói  v.v…”. Nói rỉ tai cho anh em, bà con, chòm xóm mỗi lần nói 1 người, không nói giữa đám đông không lo bị chụp mũ, tố cáo.

5- Người lớn, nhà giáo bảo ban đám trẻ, khuyến khích chúng thay vì thời gian chơi games, đi nhậu nhẹt , cờ bạc thì dùng Facebook, Twitter, Multiply, Paltalk, cell phone v.v… để liên kết thanh niên, học sinh với nhau tố cáo Việt Gian  tham nhũng, bảo vệ chủ quyền, đòi quyền sống và cơ hội đồng đều, chống xâm lược …. chờ thời cơ thuận tiện, khi toàn dân 1 lòng thì mới nổi dậy tránh bị chết non.

6- Cha xứ, Hoà thượng trụ trì, mục sư quản hạt, giáo phẩm Cao Đài, Hoà Hảo hàng ngày rao giảng nói về nỗi khổ của người dân bị tham nhũng, tệ nạn xã hội, xã hội đen quấy nhiễu, trộm cướp tràn lan, bị chiếm đất, quản chế mất tự do. Than nghèo, kể khổ không lo bị đàn áp.

7- Báo chí, truyền thông phải can đảm vượt lề, tố cáo quan tham, xã hội ung thối, giáo dục và đạo đức suy đồi.Mỗi ngày, mỗi người làm 1 điều thiện cho gia đình mình và xã hội mình tốt đẹp hơn băng hành động, lời nói trung thực, không vì miếng cơm manh áo mà bẻ cong ngòi bút, lương tâm bị cắn rứt ngày đêm.

– Chuẩn bị xong 7 bước, đừng chờ cơ hội, vì cơ hội luôn đến bất ngờ. Đôi khi chỉ 1 lý do nhỏ cũng làm sụp cả một chế độ như vụ tự thiêu của anh sinh viên Mohamed Bouazizi  tại Tunisia.

– Chúng ta không kêu gọi bạo động, nhưng sự đàn áp gia tăng mỗi ngày thì nồi xúp de (chaudière) phát nổ tự nhiên không cần ai kích động, ai cố tình chận bánh xe lịch sử thì sẽ bị nghiền nát dưới bánh xe đó. Theo tôi ông Nguyễn Minh Cần là  một người ái quốc, không đồng tình với đường lối “Bạo Động”, làm thiếu cân nhắc chớ không phải bàn lui như vài người nóng tính vội kết luận.

– Chứng minh trong thời gian gần đây đã có những nhân vật khả kính đã nhận định về Nhân Quyền và sự cai trị bằng Bạo Lực như sau:

– Hành động và lời nói của các vị lãnh tụ tôn giáo kêu gọi lòng nhân ái nhưng vô uý, không khuất phục bạo lực:

1-Đức Giáo Hoàng John Paul II kêu gọi giáo dân đừng sợ: Lời nói nổi tiếng của Ngài trước cả triệu người trên Quảng trường Chiến Thắng trong dịp hành hương về đất mẹ Ba Lan còn là cộng sản, trong năm 1979, vẫn luôn luôn hiện hữu với dân tộc Ba Lan: “Xin Đức Chúa hãy hiển linh – Để thay đổi diện mạo của đất – Mảnh đất này!” và “Các con đừng sợ hãi!”.

2- HT Thích Quảng Độ kêu gọi đừng khuất phục bạo lực:

Tôi nguyện sẽ không bao giờ khuất phục
Những kẻ chỉ biết tin nơi bạo lực
Nuôi hận thù và giết chết tình thương
Đường tôi đi- buổi sáng nay
Tràn ngập ánh thái dương
Và cảnh vật reo vui chào tiễn biệt

3-Tu sĩ Huệ Thọ Phật Giáo Hoà Hảo kêu gọi Bất Bạo Động:

“Tình trạng Đạo Tràng bị khủng bố như thế này thì không biết thời gian sắp tới sẽ như thế nào! Bởi vì chúng tôi chỉ là người tu hành, chỉ làm từ thiện xã hội thôi. Những tiếng kêu than của đồng đạo nơi đây cùng những lời phẫn uất của đồng bào chung quanh đây đã ngút tận trời xanh, nhưng không biết phải làm như thế nào!”… tôi mới nói với Thượng tá công an Bùi Đức Hồng rằng  “Anh Hồng ơi, đừng xúi lực lượng công an tràn vào, vì mấy anh kia vô tội, còn anh là người chỉ đạo. Anh có ngon thì vô đây, còn can xăng này tôi với anh ‘cưa hai’. Anh nhiệt tâm về Đảng, tôi nhiệt tâm về Đạo, hai anh em mình cưa hai”, thì ông Hồng bỏ đi.

4- Linh Mục Nguyễn Văn Lý kiên trì tranh đấu cho Tự Do, Nhân Quyền: “Ngày 01-01-2011, tôi đã phát đi LỜI KÊU GỌI TIẾN HÀNH GIẢI THỂ CHẾ ĐỘ CS, ĐỂ THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN ĐA ĐẢNG VIỆT NAM THĂNG TIẾN HÒA BÌNH, bắt đầu từ đầu tháng 01-2011. Lời Kêu Gọi này đã phù hợp lòng mong đợi của Đồng bào bao năm nay, nên đã được đông đảo Đồng bào hết lòng phấn khởi quyết tâm tiến hành Quốc vụ trọng đại và cao cả này.”

5- Nhà Cách Mạng Nguyễn Thái học nói một câu để đời: “Không thành công thì thành nhân” nếu ai cũng nhát sợ, cũng  lo không thành công thì Việt Nam đã lệ thuộc Tây trọn đời chớ không phải 80 năm thuộc điạ. Nếu ai cũng sợ Tàu mạnh, lớn gấp trăm lần Việt Nam thì ngày nay dân mình nói tiếng Tàu hết cả rồi. Yếu nhưng có sức mạnh toàn dân thì không sợ bất cứ thế lực nào cả. Mạnh nhưng bạo tàn, dù có lực lượng như Hồng Quân và Công An nhân dân  Liên Xô hàng 3,4 triệu quân mà vẫn sụp đổ chưa đầy một tháng và kèm theo là cả một khối Cộng sản Đông Âu gồm 12 quốc gia sụp đổ theo.

Cô Giang và nhà cách mạng Nguyễn Thái Học.

Ngay từ bây giờ những người yêu nước phải lập ra các kế hoạch chi tiết để ứng phó với mọi tình huống xảy ra, CSVN thô bạo trấn áp, biện pháp ứng dụng theo thời cơ. Soạn thảo kế hoạch bình định an dân, tiểu trừ  trộm cướp và  bọn cơ  hội sau Cách Mạng nhằm bảo đãm tính mạng tài sản dân lành, truy thu tài sản bất chính của tập đoàn Việt Gian CS, biện pháp bảo đảm an toàn áp dụng với các công ty Quốc Tế , tái lập Ngoại Giao rộng rải với các cường quốc Tây Phương, Hoa Kỳ và Trung Quốc, Asean sau Cách Mạng phải làm gì. Bởi vì dẹp xong nội thù phải lo ứng phó với ngoại xâm phương Bắc.

Bởi vì sau Cách Mạng mà nằm ngủ quên trên chiến thắng để cho bè lũ độc tài trở lại trên 90% trong bộ máy cai trị như Nga trong thời điểm 1991 thì cũng nguy hại vô cùng.

Tóm lại cơ hội bằng vàng 22 năm mới đáo lại một lần, chúng ta không có quyền bỏ lỡ, nhưng cũng phải thận trọng, đặt kế hoạch chu đáo, toàn dân (nông dân và công nhân là lực lượng chủ yếu) đồng loạt nổi dậy, tôn giáo một lòng, quân dân đoàn kết (phải lôi kéo lực lượng Quân Đội Nhân Dân và CAND đứng về phía Cách Mạng, trong ngoài nhất trí (Hải Ngoại và Quốc Nội đoàn kết thật sự) thì sự thành công là trong tầm tay của chúng ta.

Long Điền 04-03-2011


Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.


The

Links:

Cách Mạng Hoa Sen

You tube

Người Việt Quốc Gia Blog Spot